60 năm thành lập Bộ KH&CN: Nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển

author 10:25 30/11/2019

(VietQ.vn) - Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, KH&CN tiếp tục có những bước phát triển quan trọng về mọi mặt, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh...

Sự kiện: NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG NGÀY KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM VÀ KỶ NIỆM 65 NĂM NGÀY THÀNH LẬP BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Sáng 30/11, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Lễ kỷ niệm 60 năm thành lập (1959 – 2019) và vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng Nhất vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Tham dự buổi lễ có các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, ban, ngành cơ quan Trung ương và địa phương; các tổ chức quốc tế, tổ chức chính trị, xã hội, các doanh nghiệp, viện, trường, tập đoàn trong và ngoài ngành…

60 năm hình thành và phát triển, Bộ Khoa học và Công nghệ đã qua nhiều lần đổi tên, ban đầu là Ủy ban Khoa học Nhà nước (năm 1959), Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (năm 1965), Ủy ban Khoa học Nhà nước (năm 1990), Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (năm 1992) và từ năm 2002 cho đến nay là Bộ Khoa học và Công nghệ. Bộ có nhiệm vụ tham mưu cho Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong việc hoạch định và triển khai các chính sách phát triển khoa học và kỹ thuật, nay là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 Thủ tướng cùng nhiều lãnh đạo cấp cao cắt băng khánh thành triển lãm 60 năm Khoa học & Công nghệ.

Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, KHCN tiếp tục có những bước phát triển quan trọng về mọi mặt, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh, Hành lang pháp lý, cơ chế và chính sách quản lý KHCN được chú trọng đổi mới, hướng đến tiệm cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Cụ thể, hệ thống luật về KHCN được hoàn thiện với 08 đạo luật chuyên ngành và nhiều văn bản cấp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cấp Bộ với mục tiêu tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi để thúc đẩy KH, CN và đổi mới sáng tạo.

Nghiên cứu cơ bản góp phần tăng cường tiềm lực nghiên cứu và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các bài báo khoa học, công trình công bố quốc tế của Việt Nam tăng nhanh. Khoa học xã hội và nhân văn cung cấp cơ sở khoa học và luận cứ cho hoạch định, xây dựng các chủ trương, đường lối lớn của Đảng và Nhà nước và xây dựng các văn kiện Đại hội Đảng, khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển và xây dựng đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Tiềm lực khoa học ngày càng cao: nguồn lực tài chính từ xã hội, doanh nghiệp cho KHCN ngày càng gia tăng. Nhân lực KHCN sau 60 năm hình thành và phát triển đạt hơn, cả nước có 172.683 cán bộ tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển.

Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ được thường xuyên triển khai dưới nhiều hình thức. Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục tăng vượt bậc trong bảng xếp hạng đổi mới sáng tạo toàn cầu. Năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng 2 bậc và năm 2019 tăng 3 bậc, xếp thứ 42 trên 129 quốc gia, đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 ASEAN.

Chính sách quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường chất lượng hướng mạnh tới việc thúc đẩy hoạt động phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm…

Công tác quản lý an toàn, bức xạ hạt nhân và ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ các ngành kinh tế, xã hội đã đóng góp thiết thực và hiệu quả... Hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế về KHCN góp phần thu hút nhân lực nước ngoài vào đầu tư cho KHCN trong nước. Thúc đẩy sự hình thành và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát triển các công nghệ mới.

Khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội: trong lĩnh vực nông nghiệp, đóng góp 30% giá trị gia tăng trong sản xuất, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông và xây dựng, nhiều công trình nghiên cứu KHCN được áp dụng thành công, tiêu biểu: thiết kế, chế tạo giàn khoan tự nâng độ sâu 120m nước...

 Thúy Ngân - Hán Hiển

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang