Cảnh báo: Chất lượng nước trên các lưu vực sông đang suy giảm

author 06:51 18/08/2020

(VietQ.vn) - Việt Nam có hệ thống sông, suối dày đặc, song chất lượng nước trên các lưu vực sông đang bị suy giảm. Gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa đã và đang gây sức ép đến chất lượng nước trong các lưu vực sông, khiến các hồ và kênh mương ở khu vực đô thị trở thành nơi chứa và dẫn nước thải.

Tại hội nghị giải trình về “An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập” do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường khẳng định nước không phải là tài nguyên dồi dào, vô hạn như nhiều người vẫn nghĩ. Tuy trái đất chứa lượng nước rất lớn nhưng 97% là nước mặn, chỉ có 3% còn lại là nước ngọt. Hiện, khoảng 1/3 số quốc gia trên thế giới bị thiếu nước. Dự báo đến năm 2025, con số này tăng lên 2/3 cùng khoảng 35% dân số thế giới rơi vào tình cảnh thiếu nước nghiêm trọng.

Việt Nam có hệ thống sông, suối dày đặc, song chất lượng nước trên các lưu vực sông đang bị suy giảm. Gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa đã và đang gây sức ép đến chất lượng nước trong các lưu vực sông, khiến các hồ và kênh mương ở khu vực đô thị trở thành nơi chứa và dẫn nước thải.

"Mức độ ô nhiễm nguồn nước trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn, khu tập trung dân cư rất nghiêm trọng. Trong tổng lượng nước thải phát sinh ra các lưu vực sông, lượng nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất", Bộ trưởng Cường nêu thực tế.

Theo ông, để đảm bảo an ninh nguồn nước, chúng ta phải thay đổi tư duy mạnh mẽ, đầu tư đúng và đủ, phối hợp liên vùng và liên quốc gia… mới có thể khắc phục được thách thức đang đặt ra.

Về mức độ ô nhiễm chung các lưu vực sông, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết thêm, thượng nguồn các dòng sông cơ bản không chịu tác động, ô nhiễm tập trung chủ yếu ở hạ nguồn, các khu vực sông có đô thị, khu công nghiệp. Riêng lưu vực các sông Cầu, Nhuệ, Đáy, 70% nguồn ô nhiễm đến từ nước thải sinh hoạt của các tỉnh, thành có sông chảy qua... Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, để hạn chế ô nhiễm các lưu vực sông, trước mắt cần lắp đặt các trạm quan trắc, xử lý tại nguồn thải...; về dài hạn cần di dời, sắp xếp dân cư, lập hành lang bảo vệ hai bờ sông...

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT giải trình thắc mắc của đại biểu Quốc hội về quản lý nguồn nước tại Việt Nam.Ảnh: Zing

Trước đó, báo cáo sơ bộ kết quả khảo sát về vấn đề an ninh nguồn nước, quản lý an toàn hồ đập, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Vinh Hà nêu 8 thách thức đối với an ninh nguồn nước của Việt Nam.

Thứ nhất, vấn đề thiếu nước do lượng phân bố không đều theo không gian và thời gian. Thiếu nước còn do nhu cầu sử dụng tăng từ hệ quả của phát triển kinh tế - xã hội, quản trị hạn chế; chưa điều chuyển nước được từ nơi thừa sang nơi thiếu và cả do chưa sử dụng tiết kiệm.

Thứ hai, tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đe dọa nguồn nước ngọt của sông, nước dưới đất. Biến đổi khí hậu kéo theo hiện tượng thời tiết cực đoan làm gia tăng thiên tai, gây áp lực lên hệ thống thủy lợi, mực nước biển dâng cao, hạn chế diện tích canh tác.

Thứ ba, vấn đề ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt. Do tăng dân số, phát triển kinh tế - xã hội nên gia tăng vấn đề xả thải vào nguồn nước các sông, suối. Điều này dẫn đến tình trạng có nước nhưng không sử dụng được hoặc sẽ phải tăng chi phí để xử lý nước.

Thứ tư, nguồn nước phụ thuộc lớn vào nguồn nước sông quốc tế. Tuy Việt Nam có tới 3.500 sông suối có chiều dài từ 10 km trở lên, có 13 lưu vực sông có diện tích lớn hơn 10.000 km2 nhưng có 7 lưu vực sông liên quốc gia, phần lưu vực ở nước ngoài chiếm tới 71%, lại ở khu vực đầu nguồn. Vì vậy, chúng ta chịu rủi ro về lượng nước, chất lượng nước rất lớn do các quốc gia thượng nguồn gia tăng các hoạt động thủy điện trên dòng chính sông Hồng, sông Mê Kông làm thay đổi lớn chế độ dòng chảy, lượng nước phù sa.

Thứ năm, khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho sản xuất, sinh hoạt của người dân, đặc biệt với địa bàn có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Thứ sáu, vấn đề mâu thuẫn trong sử dụng nước trên cùng lưu vực sông cũng như cho các mục đích sử dụng.

Thứ bảy, vấn đề bảo vệ nguồn sinh thủy. Hiện, chất lượng và diện tích rừng đầu nguồn giảm, ảnh hưởng lớn đến khả năng giữ nước của các lưu vực sông.

Thứ tám, hiệu quả sử dụng nước thấp, chưa tiết kiệm, năng lực khai thác công trình thuỷ lợi còn chưa đáp ứng yêu cầu.

Bảo Lâm

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang