Muốn khoa học cơ bản phát triển tốt cần phải đầu tư đạt ngưỡng

author 15:36 28/04/2014

(VietQ.vn) - Là một trung tâm đào tạo có truyền thống về khoa học cơ bản, hàng năm các nhà khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã công bố gần 300 bài báo trên các tạp chí quốc tế, chiếm gần 15% tổng số công bố quốc tế của cả nước, trong đó có công trình được đăng trên Tạp chí Nature số một thế giới…

Sự kiện: Hoạt động Khoa học & Công nghệ

Đây là khẳng định GS-TS. Nguyễn Hữu Đức- Phó Giám đốc ĐHQGHN (Ảnh) khi trao đổi với phóng viên Chất lượng Việt Nam.

Có một thực tế là công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế của các nhà khoa học nước ta rất thấp so với các quốc gia khu vực và thế giới, ông có thể lý giải về thực trạng này?

Hoàn cảnh của mỗi quốc gia một khác. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, khoa học và công nghệ (KH&CN) của nước ta chỉ mới được bắt đầu bằng việc phát huy cải tiến kỹ thuật, sau đó chủ yếu tập trung vào các nghiên cứu ứng dụng. Những năm 70, đội ngũ cán bộ khoa học cơ bản của chúng ta được đào tạo ở các nước Liên Xô và Đông Âu rất nhiều. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu cơ bản ở nước ta còn khó khăn nên khó phát huy. Những năm gần đây, nghiên cứu cơ bản đã bắt đầu có những khởi sắc, đặc biệt là từ khi có Quỹ phát triển KH&CN (quỹ Nafosted), hiện nay mỗi năm các nhà khoa học nước ta đã công bố hơn 2.000 bài báo trên các tạp chí ISI.

Đầu tư cho khoa học cơ bản nói riêng và đầu tư cho KH&CN nói chung đòi hỏi chi phí rất lớn. Để có 1 nền KH&CN phát triển, một trường đại học như Đại học Quốc gia Singapore mỗi năm có chi phí nghiên cứu hơn 500 triệu USD, gấp hơn 500 lần so với đầu tư cho đầu tư nghiên cứu tại các trường đại học trọng điểm ở nước ta. Nói như vậy có nghĩa là muốn khoa học cơ bản phát triển tốt cần phải đầu tư đạt ngưỡng, cần có nhiều đầu bài hay và phải có cán bộ khoa học giỏi.

Để có nền KH&CN phát triển bền vững, sẵn sàng cất cánh được khi có đủ điều kiện, cũng nên quan tâm đến, quan điểm về thực tiễn và hội nhập: KH&CN Việt Nam phải giải quyết bài toán thực tiễn ở Việt Nam nhưng phải hội nhập quốc tế về cách tiếp cận, về các tiêu chí đánh giá và chuẩn hóa các sản phẩm đầu ra.

Thứ hai, quan điểm về cơ bản và trình độ cao: đã là nghiên cứu cơ bản thì phải có các phát hiện tri thức mới, giải pháp mới... mà có thể hình thành nên các ấn phẩm khoa học có chất lượng, có khả năng công bố quốc tế, có khả năng đóng góp vào tri thức của nhân loại.

Thứ ba, quan điểm ứng dụng những chuyên nghiệp: các nghiên cứu ứng dụng có mức độ áp dụng khác nhau, có những ứng dụng chỉ phát triển những kiến thức phổ thông góp phần cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, nhưng có những ứng dụng có tính dẫn dắt, thay đổi và đóng góp vào giá trị gia tăng, tạo ra yếu tố cạnh tranh cho nền kinh tế của quốc gia. Khoa học cơ bản có vai trò của dẫn dắt, phải tạo được sự gia tăng ấy. Đó cũng chính là vai trò của khoa học cơ bản của Việt Nam.

Xin ông cho biết một số kết quả nghiên cứu khoa học nổi bật của ĐHQGHN trong thời gian vừa qua?

Có thể một số bạn chưa hiểu hết, cứ nghĩ trường đại học chỉ là cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, theo Luật KH&CN thì các trường đại học đồng thời là một tổ chức KH&CN. ĐHQGHN đã và đang phát triển theo định hướng đại học nghiên cứu, tích hợp chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo. Hoạt động nghiên cứu khoa học ở ĐHQGHN đã thu được một số kết quả nổi bật như sau:

Trước hết, các hoạt động KH&CN đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của hệ chuẩn, tạo điều kiện để phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao, tài năng, đạt chuẩn quốc tế, phát triển một số ngành, chuyên ngành học mới chưa từng có ở Việt Nam như: vật liệu và linh kiện nanô, biến đổi khí hậu, khoa học bền vững, an ninh phi truyền thống,… Đặc biệt, nhờ nghiên cứu khoa học trình độ cao, đào tạo tiến sỹ đã đạt chất lượng khá tốt: hơn 50% nghiên cứu sinh tốt nghiệp tiến sĩ có bài báo ISI đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín. Đây cũng chính là lý do tại sao, sinh viên tốt nghiệp ở ĐHQGHN có rất nhiều cơ hội tiếp tục học tập và làm việc ở tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và doanh nghiệp nước ngoài.

ĐHQGHN điểm đến của những người yêu khoa học.

Là một trung tâm đào tạo có truyền thống về khoa học cơ bản, hàng năm các nhà khoa học ĐHQGHN đã công bố gần 300 bài báo trên các tạp chí quốc tế, chiếm gần 15% tổng số công bố quốc tế của cả nước, trong đó có công trình được đăng trên Tạp chí Nature số một thế giới, có kết quả xây dựng bản đồ gen người Việt…

Ngoài ra, khoa học xã hội và nhân văn cũng là một ưu thế cạnh tranh của ĐHQGHN, nhiều công trình nghiên cứu đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Gần đây, nghiên cứu về KHXH&NV đã góp phần tư vấn chính sách cho các bộ, ngành, địa phương, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia…

Nhiều sản phẩn hoàn chỉnh đã được chuyển giao ứng dụng trong thực tế như: công nghệ sạch sản xuất diesel sinh học chất lượng cao, thiết bị lọc nước uống trực tiếp, màng lọc máu Diamond, bộ sinh khối nấm linh chi Ganoderma lucidum, hệ thống công nghệ xử lý nước thải với khả năng tái sử dụng nước, công nghệ dự báo thời tiết và thủy văn biển đông, hệ đo các thông số bệnh nhân từ xa, cảm biến đo từ trường và đo góc độ nhậy cao, khối tổ hợp công suất phát 8 đường dung cho máy phát nhận biết mã chủ quyền quốc gia, Thiết kế và phát triển một bộ mã hoá tín hiệu video theo chuẩn tiên tiến H.264/AVC.

Là một cơ sở giáo dục đại học và nghiên cứu hàng đầu của cả nước, những hoạt động cụ thể của Đại học Quốc gia Hà Nội nhân Ngày Khoa học và công nghệ Việt Nam 2014 là gì, thưa ông?

ĐHQGHN sẽ tổ chức Hội nghị tổng kết về Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở ĐHQGHN và công bố khen thưởng các nhóm nghiên cứu KHCN tiêu biểu ĐHQGHN năm 2014. Tại Hội nghị này, ngoài việc đánh giá và đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, các trường phái khoa học, ĐHQGHN cũng tổ chức giới thiệu tiềm lực và các sản phẩm KHCN của các nhóm nghiên cứu này. Được biết, các nhóm nghiên cứu mạnh được khen thưởng lần này có các đặc trưng rất đa dạng: từ nghiên cứu cơ bản, đến phát triển công nghệ, tư vấn chính sách, chuyển giao tri thức…

Cũng vào thời gian trên, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ĐHQGHN sẽ tổ chức Festival KHCN Trẻ. Tại Festival này, các nhà khoa học trẻ sẽ giới thiệu các sản phẩm sáng tạo thanh niên và các câu lạc bộ khoa học.

ĐHQGHN tổ chức mở cửa phòng thí nghiệm, bảo tàng, thư viện để đón sinh viên, học sinh và cộng đồng đến tham quan và giao lưu và ngày thứ Bảy, ngày 17/5/2014. Tại đây, người xem có thể tham quan Máy gia tốc Tandem Pelletron 5SDH-2, Phòng thí nghiệm Trọng điểm công nghệ Enzim và Protein, Kính hiển vi điện tử truyền qua ở Trường ĐHKH Tự nhiên, PTN Công nghệ micrô – nanô, PTN thiết kế chip của Trường ĐH Công nghệ, Bảo tàng nhân học, Trung tâm báo chí và truyền thông của Trường Đại học Khoa học, xã hội và nhân văn, Bảo tàng gen của Viện Vi sinh vật và công nghệ sinh học…

Giao lưu, trao đổi giữa các nhà khoa học trẻ về tiềm năng, cơ hội và thách thức trong các nghiên cứu khoa học, công nghệ và chuyển giao tri thức phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân được tổ chức qua Tọa đàm KHCN phục vụ phát triển KT- XH: tiềm năng, cơ hội và thách thức. Thời gian: 14h00 ngày 17/05/2014 tại trường Đại học Kinh tế,…

Sự ghi nhận của Nhà nước và cộng đồng là động lực lớn để khuyến khích các nhà khoa học đoạt giải, cũng như cộng đồng các nhà khoa học nói chung. Nhưng có thể nói, đối tượng trọng tâm hướng đến Ngày KH&CN Việt Nam là giới trẻ, nhằm thu hút các bạn trẻ đến với hoạt động nghiên cứu, từ đó xây dựng lực lượng cán bộ KH&CN chất lượng cao. Vậy ngành KH&CN có những giải pháp nào để thu hút các bạn trẻ quan tâm đến Ngày KH&CN Việt Nam?

KH&CN có đặc thù riêng. Để phát triển KH&CN thì trước hết cần sự đam mê và cống hiến. Tuy nhiên, chỉ riêng điều đó thì chưa đủ mà phải cần đến các cơ chế chính sách và hỗ trợ từ Nhà nước. Đối với nước ta, có thể xem xét để áp dụng một số giải pháp như quy hoạch và đào tạo cán bộ nên có tầm nhìn dài hạn. Hiện nay, đối với một số ngành khoa học cơ bản, Nhà nước cần đầu tư như vật lý và năng lượng hạt nhân nhưng chỉ quan tâm đến chế độ và chính sách cho giai đoạn học đại học mà không chỉ cho người học thấy khả năng và tương lai của những giai đoạn phát triển tiếp theo như việc làm, tiếp tục học lên... thì chưa đủ sức thu hút thế hệ trẻ. Nhìn rộng ra cho các ngành khoa học cơ bản thì chỉ riêng chính sách hỗ trợ cho việc đào tạo đại học là chưa đủ mà cần phải xây dựng lộ trình đào tạo toàn diện và đầy đủ bảo đảm đầu tư đào tạo được các nhà khoa hoc cơ bản trình độ cao, kèm theo đó là các chính sách sử dụng, đãi ngộ thì thế hệ trẻ mới yên tâm dồn tâm huyết của mình cho cái đích cuối cùng.

Để cho các nhà khoa học yên tâm và có khả năng cống hiến tốt, phải xây dựng môi trường học thuật và nghiên cứu thuận lợi. Nhà nước cần quan tâm đầu tư để Việt Nam có nhiều trung tâm nghiên cứu và đào tạo hiện đại và đồng bộ. Đồng thời có kinh phí nghiên cứu khoa học đủ để các nhà khoa học đáp ứng nhu cầu sáng tạo. Kèm theo đó, các nhà khoa học cũng rất cần có những đổi mới về cơ chế tài chính (cơ chế khoán đến sản phẩm đầu ra, cơ chế hoạt động của các quỹ khoa học công nghệ), cơ chế quản lý khoa học công nghệ (đơn giản thủ tục đăng ký nghiệm thu theo sản phẩm đầu ra).

Gần đây Nhà nước đã có chủ trương kéo dài thời gian làm việc của giáo sư đến 70 tuổi, phó giáo sư đến 67 tuổi và tiến sỹ đến 65 tuổi. Đồng thời tiếp tục triển khai những chính sách về lương tương ứng với các nhà khoa học đó. Đó là những khích lệ lớn.Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy rằng, hiện nay chúng ta cũng thiếu nhóm các nhà khoa học trình độ cao, có trình độ tương đương với các nước tiên tiến, có khả năng nghiên cứu các vấn đề khoa học công nghệ mang tầm thời đại và vấn đề khoa học công nghệ trọng điểm của đất nước. Nhà nước cần quan tâm để có giải pháp phát triển đội ngũ này. Ngoài việc thu hút phát triển các nhà khoa học trong nước, chúng ta cũng cần quan tâm đến cả khả năng thu hút các nhà khoa học xuất sắc ở nước ngoài đến dẫn dắt các nhóm nghiên cứu, phòng thí nghiệm nhằm triển khai những chương trình nghiên cứu trọng điểm.

Xin cảm ơn ông!

Duy Anh (thực hiện)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang