Giải mã 'điểm nghẽn' trong quá trình tăng năng suất lao động Việt Nam

author 11:44 27/05/2019

(VietQ.vn) - Theo chuyên gia, một trong những nguyên nhân khiến tình trạng năng suất lao động tăng chậm là sự chậm phát triển trình độ khoa học công nghệ (KH&CN), dẫn đến đóng góp của KH&CN vào sự gia tăng NSLĐ của Việt Nam trong thời gian qua là khá thấp.

Chậm phát triển trình độ KH&CN ảnh hưởng tới quá trình tăng năng suất

Theo bà Nguyễn Thị Minh Thu (Viện Kinh tế chính trị học), sau 30 năm đổi mới, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện nhưng tốc độ tăng còn khá chậm và sự chênh lệch NSLĐ giữa Việt Nam và các nước khác trong khu vực và trên thế giới có nguy cơ bị nới rộng, đẩy Việt Nam đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn.

Bà Nguyễn Thị Minh Thu cho rằng, một trong những nguyên nhân tình trạng NSLĐ tăng chậm là sự chậm phát triển trình độ khoa học công nghệ (KH&CN), dẫn đến đóng góp của KH&CN vào sự gia tăng NSLĐ của Việt Nam trong thời gian qua là khá thấp.

Số liệu của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), giai đoạn 2010 – 2013 cho thấy, tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam khoảng 4,3%/năm, trong đó đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) là 26% và đóng góp của tăng cường vốn là 74%. So với các nước châu Á, đóng góp của tăng TFP vào tăng NSLĐ của Việt Nam ở giai đoạn này còn ở mức thấp.

“Có nhiều nhân tố quyết định đến quá trình tăng năng suất lao động xã hội, trong đó có vai trò quyết định của trình độ khoa học công nghệ. Chính vì thế mà Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 xác định: “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên, môi trường, nâng cao năng suất lao động, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế””, bà Thu cho hay.

Cũng theo vị chuyên gia này, nhận thức được tầm quan trọng của phát triển KH&CN tới quá trình tăng NSLĐ ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm khuyến khích phát triển KH&CN.

Chiến lược Phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 quy định, việc tăng đầu tư cho KH&CN ở mức 1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% vào năm 2020. Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành các Luật để hỗ trợ chuyển giao công nghệ, tạo nguồn nhân lực KH&CN...

Một trong những mục tiêu đặt ra là nâng cấp công nghệ với tốc độ 15% mỗi năm; làm chủ công nghệ sản xuất tiên tiến và đào tạo 80.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và nhà quản lý đang làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ trong quản lý công nghệ và quản trị. Bên cạnh đó, Luật KH&CN (2013) quy định việc hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước để thực hiện các hoạt động KH&CN.

Doanh nghiệp có thể nhận được hỗ trợ tài chính lên tới 30% tổng vốn đầu tư nếu họ thực hiện các dự án ứng dụng các kết quả khoa học để tạo ra các sản phẩm mới hoặc để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh sản phẩm...

Chậm phát triển trình độ KH&CN là một trong những nguyên nhân khiến năng suất lao động chưa thể cải thiện như mong muốn. Ảnh minh họa 

Nhiều bất cập còn tồn tại

Bà Thu cho rằng, mặc dù chủ trương chính sách ưu tiên phát triển đã có nhưng trong thực tế, quá trình thực thi các chính sách trên vẫn còn nhiều bất cập và năng lực KH&CN của Việt Nam sau 30 năm đổi mới chỉ ghi nhận được những tiến bộ khá hạn chế so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.

Thứ nhất, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ còn thấp trong tương quan so sánh với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Theo Điều tra nghiên cứu và phát triển 2014, tỷ trọng tổng chi quốc gia cho KH&CN/GDP năm 2013 là 0,87%, trong đó chi cho nghiên cứu và phát triển chiếm 43%.

Như vậy, năm 2013, tỷ lệ chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển/GDP đạt 0,37%. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển/GDP của Việt Nam so với các nước là rất thấp. Điều đáng nói là trong tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển, Ngân sách Nhà nước chiếm hơn một nửa (56,7%), nguồn đầu tư từ doanh nghiệp đạt 41,8%, còn lại chỉ có 1,5% là từ nguồn vốn nước ngoài.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ KH&CN của Việt Nam tuy tăng về số lượng nhưng so với tổng dân số thì tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực. Bình quân cán bộ nghiên cứu trên vạn dân năm 2013 tính theo đầu người của Việt Nam là 14,3 người.

Tỷ lệ này thấp hơn của Trung Quốc năm 2012 (15,3); bằng 1/5 của Nhật Bản (70,2), 1/6 của Hàn Quốc (82,0) và gần 1/5 của Singapore (74,8). Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực nghiên cứu của Việt Nam chưa cao, thiếu hụt nhiều cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ.

Điều này dẫn đến chất lượng nghiên cứu KH&CN của Việt Nam năm 2014 xếp hạng 89, trong khi ở chỉ tiêu này, Malaysia xếp thứ 27, Indonesia 46, Thái Lan 60, Philippines 91. Tỷ lệ bằng sáng chế và ứng dụng (trên một triệu dân) của nước ta năm 2014 xếp thứ 92 thế giới, trong khi tỷ lệ này của Malaysia xếp thứ 31, Thái Lan 71, Philippines 84.

Thứ ba, trình độ công nghệ thấp, không đồng bộ và chậm được đổi mới. Tỷ lệ ứng dụng KH&CN vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Theo kết quả điều tra “Công nghệ và cạnh tranh ngành chế biến, chế tạo giai đoạn 2009-2012”, chỉ có khoảng 11% số doanh nghiệp đã phát triển những loại hình công nghệ mới.

Riêng hoạt động nghiên cứu phát triển, chỉ có 8% số doanh nghiệp có hoạt động và khoảng 5% chỉ là cải tiến công nghệ sẵn có. Đáng lưu ý, 84% doanh nghiệp cho biết là không hề có bất cứ chương trình cải tiến hoặc phát triển công nghệ nào. Mức độ sẵn sàng về công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin được coi là nền tảng của phương thức phát triển mới.

Tuy nhiên, theo xếp hạng năm 2014 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam chỉ đứng khiêm tốn ở vị trí thứ 102 thế giới, trong đó, giai đoạn 2008-2014, mức độ sẵn sàng trong áp dụng công nghệ mới của Việt Nam đã giảm từ vị trí 71/134 trong năm 2008-2009 xuống vị trí 134/148 năm 2013-2014, thấp hơn rất nhiều so với Malaysia (vị trí 37), Philippines (47), Indonesia (60), Thái Lan (75).

Thứ tư, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhưng hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI còn thấp. Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chủ yếu diễn ra giữa các donh nghiệp trong nước. Việc thiếu học hỏi giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước cho thấy rằng cần có những nỗ lực chính sách bổ sung trong việc thu hút và quản lý FDI để có được hiệu ứng lan tỏa.

Nguyễn Thị Minh Thu (Viện Kinh tế chính trị học)

Cải tiến hiện trường sản xuất nâng cao năng suất doanh nghiệp(VietQ.vn) - Cải tiến hiện trường sản xuất ngày càng được chú trọng khi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang