Kiến tạo môi trường kinh doanh thông qua đổi mới hoạt động kiểm tra chuyên ngành
Trong đó, thực hiện đổi mới hoạt động kiểm tra chuyên ngành thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 27/2012/TT-BKHCN quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập khẩu thuộc trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ và sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Nhằm làm rõ những thay đổi về các quy định quản lý chuyên ngành và những phương thức kiểm tra chuyên ngành sẽ được áp dụng của cơ quan quản lý nhà nước; những quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo hướng thuận lợi hóa cho doanh nghiệp (DN) và đưa ra những giải pháp tháo gỡ đối với các DN nhập khẩu, đảm bảo giảm thiểu giấy tờ, rút ngắn thời gian, giảm chi phí thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu…
Chương trình giao lưu trực tuyến “Kiến tạo môi trường kinh doanh thông qua đổi mới hoạt động kiểm tra chuyên ngành" được tổ chức với mục tiêu tuyên truyền kết quả thực hiện Nghị quyết 19/2017/NQ-CP liên quan đến lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng nhằm đem lại những lợi ích cho DN và các bộ, ngành quản lý liên quan.
Chương trình giao lưu trực tuyến có sự tham gia của các khách mời:
- Ông Nguyễn Hoàng Linh - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
- Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
- Ông Phan Đức Hiếu - Phó Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
- Bà Trịnh Thị Ngân - Trưởng ban cố vấn Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa TP.Hà Nội
Mọi sự quan tâm của độc giả và doanh nghiệp xin mời gửi về địa chỉ email: [email protected] để giao lưu cùng các khách mời!
BBT
Thường mọi thay đổi phải có độ trễ nhất định. Hiện nay các bộ đang chuyển mình, nghĩa là đang lên kế hoạch, lập ra những chương trình để thay đổi nhưng quá trình thay đổi thì chúng tôi kỳ vọng phải nhanh chóng áp dụng vào thực tiễn. Hiện tại, đúng là có những doanh nghiệp là chưa thấy sự thay đổi căn bản. Có thể, những thông tư như Thông tư 07, 02 của Bộ Khoa học và Công nghệ được áp dụng và tạo ra những chuyển biến cơ bản trong quý I và quý II/2018.
Theo hình thức quản lý mới, doanh nghiệp có thể tiết kiệm nhiều chi phí. Doanh nghiệp cho biết, về mặt quản lý Nhà nước, tưởng như kiểm tra chặt chẽ như vậy để bảo đảm hiệu quả nhưng trên thực tế hiện nay không hoàn toàn như vậy, kiểm tra chủ yếu vẫn bằng cảm quan, bằng chủ quan của người kiểm tra. Kiểm tra protein thì nếu nhập khẩu từ Mỹ, tiêu chuẩn rất chặt chẽ nhưng hiện nay về Việt Nam thì cho sai số rất lớn. Khi doanh nghiệp có ý kiến thì người ta lại điều chỉnh cho phù hợp với chỉ số mà doanh nghiệp khiếu nại. Vì vậy, hiệu quả trên thực tiễn không nhiều và phải thẳng thắn thừa nhận là khoảng cách giữa văn bản và thực hiện, giữa chỉ đạo và hành động có thể còn rất xa.
Chúng tôi muốn nói trách nhiệm thúc đẩy, giám sát thực thi của các cơ quan bộ, ngành.
Nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp XNK, giảm thời gian thông quan hàng hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa XNK theo tinh thần Nghị quyết 19. Theo tôi cần triển khai các công việc sau:
Thứ nhất, rà soát để thống nhất danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành để tránh chồng chéo cùng một mặt hàng phải thực hiện nhiều biện pháp quản lý khác nhau.
Thứ hai, rà soát, làm rõ danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành trước thông quan (tiền kiểm) theo hướng ít nhất có thể, chuyển mạnh sang hậu kiểm.
Thứ ba, cần quy định rõ các biện pháp quản lý trong các QCVN để giúp doanh nghiệp, cơ quan kiểm tra, cơ quan hải quan trong quá trình thực hiện.
Thứ tư, rà soát, chỉnh sửa các VBQPPL quy định về chứng nhận hợp quy, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa không phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật An toàn thực phẩm.
Tôi đánh giá rất tích cực về đề xuất này. Điều đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp thông quan hàng hóa nhanh, giảm bớt thời gian, chi phí và cũng tạo điều kiện ý thức được trách nhiệm của mình trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, xuất nhập khẩu hàng hóa.
Doanh nghiệp cũng cảm nhận được sự vào cuộc một cách tích cực của cơ quan quản lý. Điều này thể hiện sự đồng hành giữa Chính quyền và doanh nghiệp theo đúng tinh thần của Chính phủ kiến tạo vì doanh nghiệp, vì sự phát triển kinh tế.
Việc tháo gỡ là cần thiết nhưng tùy với từng loại sản phẩm hàng hóa. Nếu là nguyên vật liệu nhập khẩu để phục vụ sản xuất xuất khẩu thì nên hạn chế kiểm tra vì đối tác nhập khẩu đã có ký kết với doanh nghiệp sản xuất về tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn hàng hóa do vậy phía đối tác là nơi quyết định mua hàng thì doanh nghiệp cần phải chấp nhận yêu cầu này để tiêu thụ được hàng hóa.
Đối với sản phẩm là thành phẩm nhập khẩu cần có kiểm tra nghiêm ngặt nhất là an toàn thực phẩm, an toàn phòng tránh cháy nổ. Để bảo hộ cho sản xuất trong nước cần có hàng rào kỹ thuật nghiêm ngặt.
Đối với nguyên vật liệu để phục vụ trong nước thì khâu kiểm tra hàng nhập khẩu cũng cần đảm bảo nguyên tắc để bảo hộ hàng trong nước đã sản xuất được
Công tác hoạt động quản lý hàng hóa đã bộc lộ một số bất cập như sau:
- Thời gian về kiểm tra chuyên ngành còn kéo dài
- Các quy định về kiểm tra chuyên ngành quá nhiều, lại thuộc nhiều văn bản khác nhau nên rất khó cho doanh nghiệp nắm bắt thông tin và tuân thủ
- Nhiều quy định không phù hợp với thực tế
- Sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng quản lý chuyên ngành và cơ quan hải quan chưa nhịp nhàng
Một số nguyên nhân có thể kể đến đó là nhân lực, vật lực, tài lực cho công tác này chưa đủ như mong muốn. Trong bối cảnh giao lưu hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, có những mặt hàng, mục hàng chuyên sâu cần có sự hiểu biết sâu rộng. Một bộ phận không nhỏ theo lợi ích nhóm bỏ qua những điều chúng ta cần nghiêm ngặt trong công tác quản lý, để lọt những hàng hóa kém chất lượng vào trong thị trường của ta, làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và kinh tế nói chung.
Đối với hàng hóa xuất khẩu thì khách hàng đã yêu cầu đối tác sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn của nước họ; do đó việc kiểm tra hàng xuất khẩu là không cần thiết. Tuy nhiên, có một số mặt hàng nhạy cảm quản lý đặc biệt của nhà nước, liên quan đến bí mật quốc gia, tài nguyên, sở hữu trí tuệ thì cần phải nghiêm ngặt. Còn đối với hàng hóa tiêu dùng thì không cần thiết. Ví dụ: dệt may, hàng điện tử, da giày, thiết bị máy móc, nguyên phụ liệu.
Các Bộ ngành nhìn chung quyết tâm thực hiện điều khoản được ghi trong Nghị quyết này tuy nhiên kết quả thực hiện Nghị quyết chưa được như mong muốn.
Trong thời gian tới, các Bộ ngành sẽ quyết tâm thực hiện bằng được những nội dung nêu tại Nghị quyết này. Điều này đã được nêu trong Chương trình hành động của các Bộ ngành thực hiện Nghị quyết 19 - 2017/NĐ - CP.
Theo quan điểm của tôi và phản ánh của một số chuyên gia, các doanh nghiệp có liên quan thì danh mục hàng hóa này vẫn rất rộng bao gồm cả những hàng hóa không cần thiết và không nên là đối tượng thuộc diện kiểm tra hàng hóa chuyên ngành. Như vậy sẽ làm tăng các chi phí để thực hiên kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa không cần thiết kiểm tra chuyên ngành và ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Kiến nghị tôi cho rằng rà soát các danh mục hàng hóa kiểm tra chuyên ngành là cần thiết trong giai đoạn hiện nay và qua đây là việc làm cần thực hiện thường xuyên và định kỳ để có thể bỏ ra những hàng hóa không cần thiết hoặc bổ sung thêm những hàng hóa tùy vào nhu cầu quản lý, thay đổi của trình độ KH&CN.
Theo tôi, nếu chúng ta giảm chi phí và thời gian thông quan hàng hóa, nhà sản xuất trong nước cũng như nhà tiêu dùng đều được lợi từ việc này. Khi hàng hóa là các vật liệu sản xuất được thông quan nhanh, điều đó sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Qua đó, người tiêu dùng sẽ được tiếp cận nhanh các sản phẩm cùng với giá thành rẻ.
Thực hiện tinh thần của Thủ tướng Chính phủ là kiến tạo đổi mới vì doanh nghiệp, vì tinh thần đó, trong thời gian qua nhiều bộ ngành đã tích cực vào cuộc thay đổi các quy định về hoạt động kiểm tra chuyên ngành nổi bật là Bộ KHCN, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính đã có nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong đơn giản thủ tục hành chính.
Ví dụ Bộ Công Thương sửa đổi Thông tư 44 bằng Thông tư 58 Giảm bớt thủ tục hành chính cho doanh nghiệp về nhập khẩu thép. Tuy nhiên, cần phải có những giải pháp đổi mới như sau:
Cần đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường năng lực kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu tiếp tục đưa thủ tục hành chính trong việc xin cấp phép kiểm tra chuyên ngành trong cơ chế mở cửa quốc gia.
Các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các quy trình, thủ tục hải quan đối với xuất nhập khẩu hàng hóa; phải kiểm tra chuyên ngành theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó tiếp tục nâng cao năng lực tổ chức của bộ máy quản lý và các Bộ ngành cần có đầu tư vào cơ sở hạ tầng (công nghệ thông tin, thiết bị kiểm tra, thiết bị thí nghiệm,..).
Kiểm soát quản lý chất lượng hàng hóa chỉ là một nhiệm vụ của các bộ quản lý ngành. Như vậy, nhiệm vụ chung của các bộ ngành là tạo môi trường kinh doanh thuận lợi mà ở đó thúc đẩy được hoạt động đầu tư kinh doanh và phát huy tối đa được mọi nguồn lực được đưa vào sản xuất kinh doanh. Một môi trường kinh doanh tốt là môi trường mà doanh nghiệp được tự do sáng tạo các ý tưởng kinh doanh được đưa vào thực hiện một cách nhanh nhất, rẻ nhất và ít rủi ro nhất, cạnh tranh lành mạnh được duy trì, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp được bảo vệ.
Như vậy, rõ ràng là các bộ ngành phải thường xuyên rà soát tổng thể các quy định trong lĩnh vực quản lý của Bộ ngành để bãi bỏ sửa đổi những nội dung quy định không đáp ứng yêu cầu nói trên. Đồng thời chú trọng đến việc tổ chức triển khai có hiệu quả hơn các quy định của pháp luật. Nghiên cứu tìm kiếm và áp dụng những phương thức quản lý nhà nước mới phù hợp hơn với sự phát triển của kinh tế xã hội, khoa học công nghệ để giảm thiểu sự can thiệp gây phiền hà cho hoạt động kinh doanh.
Tôi đánh giá tích cực động thái này. Với sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và cơ quan chuyên môn, đạc biệt là cơ quan quản lý chuyên ngành, cơ quan quản lý XNK, cơ quan hải quan và cơ quan hỗ trợ khác, mục tiêu này hoàn toàn có thể thành hiện thực.
Chúng ta có cơ sở để tin tưởng điều đó tuy nhiên cũng có những cản trợ như tôi đã phân tích ở các câu hỏi trước. Chỉ với hướng đó, chúng ta mới có thể đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển kinh tế.
Theo quan điểm của tôi thì việc rà soát xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và việc đổi mới quản lý chuyên ngành và rà soát hàng hóa thuộc diện kiểm tra chuyên ngành không mâu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau. Bởi vì, việc xây dựng các tiêu chuẩn nhằm đảm bảo mức an toàn và sản phẩm hàng hóa tiêu dùng.
Việc rà soát giảm hàng hóa thuộc diện kiểm tra chuyên ngành theo nghị quyết 19-2017/NQ-CP nhằm giảm chi phí và thời gian trong việc đưa những hàng hóa sản phẩm vào lưu thông chứ không đồng nghĩa là bỏ kiểm tra chất lượng hàng hóa. Nói cách khác, nghị quyết 19 yêu cầu thay đổi phương thức kiểm tra chuyên ngành để đảm bảo chất lượng hàng hóa nhưng ít gây tốn kém nhất cho DN.
Việc sửa đổi các quy định về phí kiểm tra chuyên ngành cần được thường xuyên rà soát, bổ sung sửa đổi nhằm mục tiêu giảm chi phí cho doanh nghiệp. Vì hiện nay doanh nghiệp vẫn phản ánh chi phí này quá cao cả thời gian và kinh tế, làm hạn chế năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Do đó, kiến nghị các bộ ngành coi công tác này là bước đột phá trong sửa đổi các thủ tục hành chính.
Chúng ta phải tuân thủ những cam kết mà chúng ta đã ký với các định chế ở nước ngoài trong đó có việc thừa nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá phù hợp (thử nghiệm, chứng nhận, giám định). Cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp cần ý thức được rằng những điều đó để khẳng định chất lượng sản phẩm hàng hóa của mình và cũng là tạo điều kiện để chúng ta hội nhập và hội nhập thành công.
Rất cần chúng ta nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ quan có chức năng giám định, kiểm tra chuyên ngành và ý thức tự tôn dân tộc đối với doanh nghiệp khi sản xuất ra sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam với chất lượng Việt Nam đã được thừa nhận và cần duy trì chất lượng và giữ vững các thương hiệu đó.
Với tinh thần của Nghị quyết 19, các bộ ngành triển khai tích cực vào cuộc để doanh nghiệp được giảm các thủ tục hành chính, giảm chi phí doanh nghiệp đó là điều kiện để doanh nghiệp được đổi mới và phát triển. Đối với doanh nghiệp mục đích kinh doanh có hiệu quả và tạo việc làm cho người lao động nhằm phát triển kinh tế theo mục tiêu của Chính phủ đề ra
Những thay đổi và kết quả đạt được trong thời gian qua rất đáng ghi nhận. Ví dụ như điểm đáng ghi nhận nhát là chỉ số Đổi mới sáng tạo. Theo báo cáo của đổi mới sáng tạo toàn cầu 2017 (GII - 2017) vừa được WIPO công bố trong tháng 6/2017 đã xếp hạng Việt Nam ỏ vị trí 47/127, tăng 12 bậc so với vi trí xếp thứ 59 của năm 2016. Đây là thứ hạng cao mnhaats mà Việt Nam đạt được từ trước đến nay.
Một số văn bản đã được sửa đổi và có tác động tích cực như thông tư 02/2017/TT-BKHCN ngày 31/3/2017 và thông tư 07/2017/TT-BKHCN và nghị định 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017. Tuy nhiên tại cuộc hội thảo này thì cộng đồng DN có nhiều kiến nghị cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hoạt động kiểm tra chuyên ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
Việc sử dụng công nghệ thông tin thông qua việc khai báo trên Internet được triển khai trên diện rộng và đây là bộ công cụ hữu hiệu giúp cho công tác quản lý và kiểm tra chuyên ngành đạt được kết quả như mong muốn của cơ quan quản lý.
Tuy nhiên hoạt động này bộc lộ bất cập như hệ thống báo lỗi, đường truyền chậm, hay bị tắc nghẽn, việc phản ánh kết nối liên thông với các Bộ chưa được nhiều, hiệu quả của Cổng thông tin 1 cửa Quốc gia chưa được như kì vọng, nhiều hướng dẫn thủ tục trên Cổng thông tin điện tử Quốc gia chưa rõ ràng, dễ hiểu, còn gây những hiểu lầm, rủi ro cho doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu, việc chia sẻ thông tin giữa các bộ ngành chưa tốt nên kết quả của việc này chưa được như mong muốn và còn gây tốn kém thời gian cho doanh nghiệp.
Tôi cho rằng DN sẽ được hưởng lợi. Cụ thể như:
- Giảm được chi phí lưu kho bãi, thời gian thông quan hàng hóa.
- Giảm được chi phí đánh giá sự phù hợp (đối với trường hợp đánh giá tại cơ sở sản xuất nước ngoài hoặc thừa nhận kết quả ĐGSPH)
- Tạo lợi thế cạnh tranh.
Đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa thường xuyên phối hợp với Sở Công thương để tổ chức tập huấn, đào tạo bồi dưỡng, cập nhật những chính sách mới và hướng dẫn doanh nghiệp triển khai thực hiện.
Chúng tôi cho công việc này là hết sức cần thiết, đã phối hợp với trung tâm năng suất Việt Nam, Cục Hải quan về hoạt động kiểm tra chuyên ngành cho doanh nghiệp vì lĩnh vực này doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thiếu và yếu nhất là quản trị doanh nghiệp nên công tác tuyên truyền phổ biến các quy định của nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên của hiệp hội.
Có thể nói với tinh thần Chính phủ kiến tạo, Chính phủ luôn đồng hành, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người dân và doanh nghiệp có quyền kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Chưa bao giờ doanh nghiệp được quan tâm như hiện nay. Một loạt các NQ 19 và đặc biệt là NQ 35 của Chính phủ đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ ngành hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Ngày 6/6 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký QĐ 26 về việc các giải pháp thực hiện thành công NQ 35 nêu trên. Doanh nghiệp được hưởng lợi từ môi trường kinh doanh thuận lợi, từ các gói giải pháp, chính sách hỗ trợ và các điều kiện để phát triển thị trường. Những khó khăn có liên quan đến cải cách thủ tục hành chính đang dần được tháo gỡ, các phiền hà sẽ được loại bỏ, doanh nghiệp sẽ có điều kiện để phát triển hơn.
Để những gói giải pháp trên được hiện thực hóa, rất cần doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nếu gặp vướng mắc và cản trợ cần khẩn trương thông tin đến các cơ quan chức năng qua Cổng thông tin của VCCI, của các Bộ ngành và của Chính phủ.
Tôi cho rằng đây không phải là "dễ dãi" trong quá trình kiểm tra nhập khẩu mà là tạo điều kiện thuận lợi phù hợp nhất cho doanh nghiệp thực thi các quy định của pháp luật. Việc giảm thiểu tối đa thời gian kiểm tra chuyên ngành không có nghĩa là doanh nghiệp không chịu trách nhiệm về sản phẩm hàng hóa của mình.
Đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu doanh nghiệp vẫn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa của mình. Nhà nước sẽ thực hiện việc hậu kiểm và đánh giá sự tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp.
Quan sát chung về việc triển khai NQ 19 thì có sự thay đổi cũng rõ nét hơn đó là các bộ bắt đầu quan tâm và tích cực hơn trong việc triển khai NQ 19. Lãnh đạo các cơ quan có liên quan có quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn so với mấy năm trước đây. Với nội dung về quản lý chuyên ngành cũng rất đáng ghi nhận những nỗ lực của Bộ KH-CN trong việc triển khai những cải cách quản lý chất lượng hàng hóa trong phạm vi trách nhiệm của Bộ, so với các bộ khác.
Tuy nhiên, tôi cho rằng các bộ vẫn cần có nỗ lực và quyết tâm cao hơn nữa và duy trì được nỗ lực cải cách bởi vì việc cải cách là việc làm thường xuyên chứ không phải là làm một lần xong dừng lại.
Danh mục quá rộng, nhiều sản phẩm, hàng hóa quy định trong danh mục nhưng không QCVN hoặc không có biện pháp quản lý nên dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp, cơ quan kiểm tra, cơ quan hải quan khi thực hiện.
Cùng một sản phẩm, hàng hóa nhưng phải chịu nhiều cơ chế quản lý khác nhau của các luật khác nhau (Luật Chất lượng SPHH, Luật ATTP, Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, Luật Thú y, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Thương mại, Luật Hóa chất...).
Doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc thông quan nhanh, giảm bớt phiền hà, giảm bớt chi phí, các sản phẩm hàng hóa được đưa vào thị trường nhanh chóng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước cũng như người tiêu dùng Việt Nam.
Tuy nhiên, doanh nghiệp phải xác định được trách nhiệm và sự tuân thủ nghiêm ngặt đối với pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa, hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý, kiểm tra chuyên ngành để vừa đảm bảo được yêu cầu của công tác quản lý vừa giải tỏa được những phiền hà không đáng có đối với doanh nghiệp, đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, nền kinh tế và điều kiện tiêu dùng của người dân.
Về bản chất đã có một số bộ ngành đã triển khai tuy nhiên vẫn còn nhiều thủ tục còn phải dùng biện pháp thủ công nên ảnh hưởng đến chi phí, thời gian của doanh nghiệp. Đề nghị các bộ ngành tiếp tục đổi mới, cải tiến phương pháp tiếp nhận các hồ sơ, trả kết quả cho doanh nghiệp nhất là các đơn vị ở các tỉnh thành xa trung tâm; tránh gây tốn kém cho doanh nghiệp.
Đổi mới công tác này cũng là một biện pháp giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Để đạt được mục tiêu ASEAN 4 , thì các bộ cần rà soát tổng thể các quy định liên quan đến kiểm tra chất lượng hàng hóa bao gồm cả hàng hóa xuất nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước. Tiêu chí để rà soát bao gồm xác định những thủ tục, những quy định làm phát sinh chi phí cho doanh nghiệp, kéo dài thời gian làm thủ tục và tạo ra những rủi ro vì không tiên liệu trước được hoặc không rõ ràng.
Trên cơ sở đó, sẽ phải bãi bỏ những quy định gây ra những bất cập nêu trên. Đồng thời cũng rà soát lại quy trình cách thức tổ chức thực hiện những thủ tục hành chính có liên quan để nhằm loại bỏ những khâu trùng lặp, gây tốn kém thời gian cho doanh nghiệp.
Việc cải cách nói trên cần phải được triển khai quyết tâm rất lớn, đặc biệt với những người đứng đầu ở cơ quan có liên quan. Với tư duy mới thay vì quản lý bằng mọi giá như trước đây thì nay cần thay bằng tư duy quản lý có hiệu quả và ít tốn kém nhất cho doanh nghiệp.
- Tiền kiểm là hoạt động kiểm tra chuyên ngành trước khi hàng hóa được thông quan.
- Hậu kiểm là hoạt động kiểm tra chuyên ngành sau khi hàng hóa được thông quan.
Đối với hoạt động công bố hợp quy, chỉnh sửa theo hướng quy định việc công bố hợp quy, việc kiểm tra nhà nước hàng hóa nhập khẩu dựa trên một trong các biện pháp sau tùy thuộc vào mức độ, khả năng gây mất an toàn của sản phẩm, hàng hóa:
- Kết quả tự đánh giá sự phù hợp của tổ chức, cá nhân (hậu kiểm);
- Kết quả đánh giá chứng nhận của tổ chức chứng nhận đã đăng ký hoặc được thừa nhận theo quy định của pháp luật (hậu kiểm);
- Kết quả chứng nhận hợp quy của tổ chức chứng nhận được chỉ định thực hiện (tiền kiểm, chỉ áp dụng đối với hàng hóa có nguy cơ cực cao hoặc nhạy cảm, hạn chế nhập khẩu).
Đây chính là điểm mới trong công tác kiểm tra chuyên ngành. Theo đó, việc kiểm tả chuyên ngành phải dựa trên nguyên tắc đánh giá rủi ro của sản phẩm hàng hóa, hạn chế việc áp dụng cơ chế kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa cao nhất đối với sản phẩm hàng hóa ít rủi ro.
Cần áp dụng chính thức phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành.
Rà soát các mặt hàng cần quản lý, cần kiểm tra chuyên ngành theo hướng xác định các mặt hàng này cần được kiểm tra tại cửa khẩu, tại địa bàn, địa điểm quản lý của hải quan, mặt hàng nào kiểm tra trước, mặt hàng nào kiểm tra sau.
Áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý kiểm tra chuyên ngành.
Chúng tôi nhận thấy rằng việc thực thi các NQ 19 - 2014, 2015, 2016, 2017 được thực hiện tốt và công tác cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành được các Bộ ngành triển khai. Việc kiểm tra chuyên ngành thường liên quan đến công tác kiểm tra chất lượng hàng hóa, kiểm định thực vật, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm.
Công tác này đòi hỏi chuyên môn sâu, cần các cán bộ có kiến thức chuyên môn với máy móc hiện đại thì mới có thể phân tích, cảm nhận để có kết quả tốt. Tuy nhiên công tác này cũng bộc lộ những bất cập như tôi đã nêu ở các câu hỏi trước. Một số bất cập nhất định ở đường truyền Internet, máy móc giám sát, trình độ phân tích của cán bộ chuyên môn nên kết quả kiểm tra chuyên ngành được gửi đến doanh nghiệp chậm do vậy thời gian thông quan hàng hóa chậm. Có trường hợp hàng khi về đến thị trường thì bị mất chất lượng, có trường hợp buộc phải hủy, gây tốn kém tiền của cho xã hội và doanh nghiệp.
Việc này cần được cải tiến trong thời gian tới để đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm tra chuyên ngành và công tác thông quan hàng hóa được thuận lợi, tạo điều kiện để giảm bớt những phiền hà tốn kém không đáng có như đã nêu trên.
Theo thống kê, hoạt động kiểm tra chuyên ngành hiện nay được quy định ở nhiều văn bản khác nhau , ước lượng khoảng vài trăm văn bản có liên quan đến khoảng 13 bộ quản lý chuyên ngành.
VD : như luật quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, an toan vệ sinh thực phẩm.....
Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều ý kiến từ phía cộng đồng doanh nghiệp (DN) cho rằng hoạt động kiểm tra chuyên ngành đã gây rất nhiều khó khăn vướng mắc cho DN, đặc biệt là trong công tác xuất nhập khẩu sản phẩm hàng hóa gây tốn kém về chi phí, giảm lợi thế cạnh tranh của DN. Chính vì vậy trong nhiều năm vừa qua Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành để tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho cộng đồng DN. Và việc này được thể hiện cụ thể qua nghị quyết 19 của Chính phủ.
Để triển khai nghị quyết 19 của Chính phủ, Tổng cục TCĐLCL đã tích cực tham mưu cho Bộ KH&CN, nghiên cứu và đề xuất một loạt các cơ chế chính sách để đổi mới hoạt động kiểm tra chuyên ngành theo tinh thần "Đổi mới phục vụ kiến tạo", tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp với tình hình mới, đáp ứng tối đa nhu cầu của DN đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và người tiêu dùng.
Thứ nhất, Tổng cục đã kiến nghị Bộ KH&CN, Chính phủ rà soát sửa đổi khung pháp lý để đổi mới hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
- Bổ sung cơ chế kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa nhập khẩu theo hướng hậu kiểm, đơn giản hóa công tác tiền kiểm, công tác kiểm tra chất lượng Nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa, công bố hợp quy để giải quyết một số bất cập trong thời gian vừa qua thông qua việc ban hành Thông tư 02/2017/TT-BKHCN; Việc kiến nghị Chính phủ ban hành nghị định sửa đổi nghị định 132/2008/NĐ-CP. Như vậy, với tinh thần này việc kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu có thể được thực hiện chỉ trong vòng một ngày, vượt mục tiêu trung bình ASEAN+4.
Thứ hai, trực tiếp rà soát nhóm sản phẩm hàng hóa thuộc trách nhiệm của Bộ KH&CN, qua đó thay đổi cơ chế hậu kiểm đối với phần lớn nhóm sản phẩm hàng hóa. Cụ thể, duy nhất chỉ có nhóm sản phẩm hàng hóa về xăng dầu và LPG là thực hiện tiền kiểm. Còn lại tất cả các nhóm sản phẩm hàng hóa chuyển sang hậu kiểm như: Thép, mũ bảo hiểm, điện điện tử, đồ chơi trẻ em...
Thứ ba, đã kiến nghị Chính phủ hủy bỏ quyết định 50/QĐ-TTg về danh mục sản phẩm hàng hóa phải kiểm tra về chất lượng. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã thống nhất với Bộ KH&CN để kiến nghị Chính phủ hủy bỏ quyết định này. Việc này sẽ tạ điều kiện thuận lợi lớn cho một loạt DN bị vướng mắc về quy định này trong thời gian vừa qua.
Thứ tư, khuyến khích tổ chức ĐGSPH thực hiện đánh giá tại nguồn để giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp nhập khẩu vì nếu được đánh giá tại cơ sở sản xuất nước ngoài, giấy chứng nhận có giá trị 03 năm, khi đó hàng nhập khẩu vào Việt Nam không phải thực hiện lấy mẫu thử nghiệm, đánh giá phù hợp.
Bên cạnh đó, Tổng cục đang tiếp tục triển khai một loạt các hoạt động để đưa tinh thần đổi mới hoạt động kiểm tra chuyên ngành vào thực tiễn theo đúng tinh thần chỉ đạo của Bộ KH&CN, Chính phủ.
Cần đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường năng lực kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu tiếp tục đưa thủ tục hành chính trong việc xin cấp phép kiểm tra chuyên ngành trong cơ chế mở cửa quốc gia.
Các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các quy trình, thủ tục hải quan đối với xuất nhập khẩu hàng hóa; phải kiểm tra chuyên ngành theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó tiếp tục nâng cao năng lực tổ chức của bộ máy quản lý và các Bộ ngành cần có đầu tư vào cơ sở hạ tầng (công nghệ thông tin, thiết bị kiểm tra, thiết bị thí nghiệm,..).
Công tác hoạt động quản lý hàng hóa đã bộc lộ một số bất cập như sau:
- Thời gian về kiểm tra chuyên ngành còn kéo dài
- Các quy định về kiểm tra chuyên ngành quá nhiều, lại thuộc nhiều văn bản khác nhau nên rất khó cho doanh nghiệp nắm bắt thông tin và tuân thủ
- Nhiều quy định không phù hợp với thực tế
- Sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng quản lý chuyên ngành và cơ quan hải quan chưa nhịp nhàng
Mục tiêu cao nhất của Nghị quyết 19-2017 là tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua cắt giảm chi phí và thời gian trong thực hiện các quy định của nhà nước. Đối với quản lý chất lượng hàng hóa thì vừa đảm bảo hàng hóa có chất lượng an toàn tới tay người tiêu dùng nhưng đảm bảo quá trình lưu thông hàng hóa đó nhanh và ít chi phí nhất.
Từ mục tiêu trên, Nghị quyết 19 yêu cầu các cơ quan quản lý chuyên ngành thay đổi phương thức quản lý chất lượng hàng hóa nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng để nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc làm các thủ tục xuất nhập khẩu, kiểm tra chất lượng và đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng nhanh và hiệu quả nhất.
Một số nguyên tắc cải cách chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Áp dụng phương thức quản lý rủi ro để thực hiện hậu kiểm, rà soát và bãi bỏ các thủ tục không cần thiết để giảm các chi phí cho doanh nghiệp. Áp dụng các phương thức quản lý mới như thừa và công nhận kết quả kiểm tra chất lượng với hàng hóa ở nước có trình độ phát triển bằng hoặc cao hơn nước ta.
Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp nhập khẩu giảm thời gian, chi phí thực hiện kiểm tra chuyên ngành là tăng cường đánh giá tại cơ sở sản xuất nước ngoài. Bởi đối với doanh nghiệp chi phí còn hạn chế và các thủ tục hành chính ở các nước sở tại thì các DN còn chưa thông thạo, cần có sự hỗ trợ của các cơ quan tham tán thương mại tại các nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc nhập khẩu hàng hóa.
Cũng có tình trạng một số ngành không tập trung xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia và đang áp dụng các hình thức khác. Gần đây, nhiều doanh nghiệp đang phản ứng về Nghị định 38 của Chính phủ trong lĩnh vực y tế và an toàn thực phẩm. Trong nhiều năm thực hiện Luật An toàn vệ sinh thực phẩm thì việc ban hành các tiêu chuẩn trong lĩnh vực thực phẩm rất hạn chế và hiện nay đang áp dụng theo hình thức là phaiir xin giấy công nhận phù hợp các quy định an toàn thực phẩm. Đây là một hình thức nhiều doanh nghiệp cho rằng nó không có căn cứ pháp luật và thủ tục xin giấy xác nhận đó cũng rất khó khăn. Chính doanh nghiệp cũng cho rằng các bộ ngành cần tích cực giành nhiều thời gian và nỗ lực theo hướng dẫn của Bộ KH&CN cần nhanh chóng ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kĩ thuật doanh nghiệp chỉ công nhận hợp quy hợp chuẩn thì nó rõ ràng, minh bạch hơn.
Thứ hai, chúng tôi thấy rằng phải linh hoạt và thực tế bởi vì hiện nay có doanh nghiệp hàng đầu thế giới như Intel đang hoạt động ở Việt Nam, khi người ta nhập khẩu những con chip trong phòng thí nghiệm, nó chưa hề xuất hiện trên thị trường, thậm chí thế giới chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn nhưng khi nhập về Việt Nam để phục vụ cho hoạt động sản xuất nhà máy thì vẫn bị kiểm tra. Không hiểu anh lấy quy chuẩn nào để kiểm tra. Nó gây ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nghiệp.
Ông Đậu Anh Tuấn: thực tế vấn đề trên xảy ra với những hàng hóa cần lấy mẫu kiểm định. Theo quy định hiện nay là 72 giờ đồng hồ, có doanh nghiệp phản ánh, nếu tàu về ngày thứ Sáu, phải tính thêm cả ngày thứ Bảy, Chủ nhật. Trên thực tế doanh nghiệp mất cả tuần, doanh nghiệp cũng băn khoăn với năng lực của các phòng thí nghiệm hiện tại chỉ có 5-6 tiếng là có kết quả, mặc dù phòng thí nghiệm đã có kết quả, nhưng cơ quan Nhà nước ở đây vẫn máy móc đợi cho đủ 42 giờ đồng hồ mới được thông quan. Trong khi mỗi một giờ lưu kho sẽ tạo chi phí lớn cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp khuyến nghị không cần tới 3 ngày, thậm chí có thể rút ngắn nửa ngày.
Đúng ra là với nỗ lực của các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Nhưng thực tế không như vậy. Theo doanh nghiệp phản ánh, nhiều khi tàu về cảng, nhưng giám đốc cảng lại bận đi chơi golf, tennis. Cái đó tạo ra ách tắc rất lớn.
Điều thứ hai, hiện nay việc thừa nhận tiêu chuẩn lẫn nhau cũng là cách để giảm thủ tục hành chính. Có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu ô tô, nhập khẩu động cơ mà không lý giải được những sản phẩm động cơ G7 nhập từ châu Âu, Mỹ về Việt Nam vẫn không đủ tiêu chuẩn. Doanh nghiệp nhập khẩu cũng không lý giải được với các hãng sản xuất.
Ở đây, chúng tôi muốn nói tính tin cậy của việc kiểm định đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, có thể máy móc, có thể doanh nghiệp không được lòng của một vài bộ phận khiến cho thủ tục không như mong muốn. Đây là điều có trên thực tế.
Chúng tôi cho rằng một trong những định hướng gần đây của Tổ Công tác của Thủ tướng đã chỉ đạo là cần tích cực áp dụng những tiêu chuẩn đã được công bố tại các nước. Nếu mặt hàng doanh nghiệp nhập về đã được xác nhận bởi những quốc gia có tiêu chuẩn cao, Việt Nam nên chấp nhận và sử dụng. Thông tư 02 cũng đã nhấn mạnh yếu tố này, đó là cách giảm thiểu thủ tục hành chính và giảm chi phí cho doanh nghiệp.