GS Ngô Bảo Châu đề xuất 3 trụ cột quan trọng cho phát triển giáo dục đại học
Chi Pu tiếp tục vào đề thi Ngữ Văn: 'Không nên ra đề như vậy vì tính giáo dục không cao'
Giáo dục dinh dưỡng và phát triển thể lực cho trẻ em Việt Nam 2017
Bằng Đại học chính quy và tại chức có giá trị như nhau?
Tại diễn đàn “Nguồn nhân lực toàn cầu 2017” được tổ chức tại Hà Nội vừa qua, là người đứng đầu trong nhóm tư vấn gồm 17 người của Bộ GD&ĐT, GS Ngô Bảo Châu đã đưa ra những con số cần được nhìn nhận nghiêm túc.
Theo bảng xếp hạng 400 trường đại học hàng đầu của châu Á do tổ chức QS xếp hạng, Việt Nam có 5 trường. Malaysia có 27 trường, Indonesia 17 trường, Thái Lan 16 trường, Philippines 6 trường.
Số lượng bài báo khoa học "made in Việt Nam" được đăng tải trên các tạp chí của Scopus năm 2016 cũng thấp hơn các nước trong khu vực. Đứng đầu là Malaysia với 28.546 bài, Singapore 19.992 bài, Thái Lan 14.176 bài, Indonesia 11.470 bài, Việt Nam 5.563 bài và Philippines 2.642 bài.
Tại diễn đàn, GS Ngô Bảo Châu đã đề xuất 3 trụ cột để phát triển GD Đại học Việt Nam. Ảnh: Vietnamnet
Theo GS Ngô Bảo Châu, thách thức đầu tiên với giáo dục đại học Việt Nam là hệ thống quản trị kém hiệu quả. Bên cạnh đó, theo khảo sát của World Bank, mức đầu tư trên đầu sinh viên của Việt Nam rất thấp so với các nước Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia.
Năm 2013, mức này của Việt Nam là 645 USD/sinh viên, trong khi ở Singapore là 12.013 USD/sinh viên, gấp gần 20 lần.
Từ đó, GS Ngô Bảo Châu cùng nhóm nghiên cứu đã đề xuất chiến lược để phát triển giáo dục đại học, cao đẳng tại Việt Nam. Theo ông, có 3 trụ cột quan trọng gồm quản trị, tài chính và năng lực hệ thống.
Về quản trị:
GS Ngô Bảo Châu cho rằng, cần cân bằng giữa tự chủ đại học và quản lý Nhà nước. Cần có mô hình hệ thống đại học và cao đẳng thống nhất, cùng với bộ tiêu chí rành mạch, để đảm bảo cho hiệu quả của quản lý Nhà nước (quản trị, giám sát), hướng tới nâng chất lượng của cả hệ thống.
Về tài chính:
GS Châu đề xuất nâng cao hiệu quả ngân sách dành cho đại học và cao đẳng bằng cách chuyển từ hình thức cấp kinh phí chi thường xuyên sang hình thức đặt nhiệm vụ ưu tiên (đào tạo, nghiên cứu) thông qua quy trình cạnh tranh công bằng. Đồng thời, việc đảm bảo cơ hội tiếp cận bằng quỹ học bổng và tín dụng sinh viên là cần thiết.
Về năng lực hệ thống:
GS cùng nhóm nghiên cứu đề xuất cần thiết kế bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư; thiết kế bộ tiêu chí đánh giá chất lượng quản trị, đào tạo và nghiên cứu khoa học; thiết kế thị trường lao động ở đại học cao đẳng theo hướng mở và cạnh tranh; thống nhất và đơn giản hoá hệ thống tên gọi và chức danh.
Trần Minh (t/h)