Kiểm tra chuyên ngành hàng hóa: Chuyển động nhưng vẫn còn không ít... 'điểm nghẽn'

authorNgọc Xen 08:56 17/01/2019

(VietQ.vn) - Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI khẳng định, vấn đề kiểm tra chuyên ngành hàng hóa đã chuyển động nhưng vẫn còn nhiều "điểm nghẽn".

Xoay quanh vấn đề kiểm tra chuyên ngành (KTCN) hàng hóa, phóng viên Chất lượng Việt Nam online (VietQ.vn) đã trao đổi với ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI để làm rõ những thành quả đã đạt được cũng như một số vấn đề còn tồn tại. 

Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI. 

Thưa ông, năm 2018, vấn đề cải cách thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa đã có những bước chuyển mình tích cực. Vậy ông đánh giá như thế nào về những mặt tích cực này?

Theo tôi, năm 2018, vấn đề cải cách thủ tục KTCN với mục tiêu rất cụ thể (tỷ lệ cắt giảm hàng hóa phải KTCN, thay đổi phương thức quản lý...) là một trong những nhiệm vụ được đặt ra tại Nghị quyết 01 và Nghị quyết 19.

Năm 2018 cũng đánh dấu những chuyển động mạnh mẽ của cơ quan nhà nước trong hoạt động cải cách thủ tục KTCN về mặt chính sách (sửa đổi các văn bản pháp luật về thủ tục KTCN theo hướng quản lý rủi ro, phù hợp với cơ chế quản lý mới, xác định các mã HS đối với các loại hàng hóa còn thiếu, cắt giảm danh mục hàng hóa phải KTCN...).

Theo số liệu thống kê của cơ quan hải quan, từ quý II/2015 đến quý I/2018, số mặt hàng thuộc diện quản lý và phải KTCN đã giảm 4.403 mặt hàng, trong đó Bộ Y tế giảm 868 mặt hàng, Bộ NN&PTNT giảm 1.069 mặt hàng, Bộ KH&CN giảm 532 mặt hàng, Bộ Công thương giảm 989 mặt hàng... Có thể nói, những chuyển động này là rất tích cực, đánh dấu "bước ngoặt" trong hiệu quả cải cách về KTCN ở nước ta.

Thưa ông, bên cạnh mặt tích cực, hoạt động kiểm tra chuyên ngành hàng hóa vẫn đang bộc lộ không ít "điểm nghẽn". Ông có chia sẻ như thế nào về những mặt hạn chế trên?

Phải thừa nhận rằng, những mặt tích cực trên là chưa đủ, hoạt động KTCN hàng hóa vẫn còn tồn tại nhiều "điểm nghẽn" liên quan đến tư duy hoạch định chính sách và đây sẽ là thách thức không hề nhỏ khi thực hiện cải cách trong lĩnh vực này.

Ông có thể nói rõ hơn về những "điểm nghẽn" này?

Phân quyền quản lý trong hoạt động KTCN

Theo thống kê của Bộ Tài chính, hiện vẫn có 18 nhóm mặt hàng cùng lúc phải thực hiện nhiều thủ tục, chịu nhiều hình thức quản lý, KTCN do cùng một Bộ hoặc nhiều Bộ quy định. Ví dụ: Nồi cơm điện, nồi áp suất, nồi hấp, nồi chiên... (tiếp xúc với thực phẩm) thuộc 3 Bộ: Khoa học và Công nghệ, Công Thương và Y tế quản lý...

Giải pháp của các cơ quan nhà nước đưa ra là "loại bỏ những chồng chéo trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành", sửa đổi quy định liên quan đến KTCN theo hướng 1 mặt hàng chỉ điều chỉnh bởi 1 văn bản và do 1 đơn vị thuộc Bộ chịu trách nhiệm quản lý, kiểm tra. Giải pháp này là đúng đắn, tạo thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp (DN) khi thực hiện thủ tục KTCN, nhưng lại không dễ thực hiện. Một mặt, các Bộ đang cùng quản lý một sản phẩm, tiêu chí nào để xác định Bộ thích hợp nhất để quản lý sản phẩm đó? Mặt khác, mỗi Bộ hiện đang quản lý sản phẩm liên quan theo một cơ chế riêng, vậy tiêu chí nào để xác định cơ chế thích hợp nhất cho sản phẩm đó để vừa đảm bảo mục tiêu quản lý của nhà nước vừa tạo thuận lợi cho DN?

Trên thực tế, câu trả lời khả dĩ và thích hợp nhất cho tất cả những câu hỏi này không hẳn là không có. Ví dụ thiết lập mô hình quản lý mới: Các Bộ chuyên ngành chỉ quy định về tiêu chuẩn đối với hàng hóa cần KTCN, DN nhập khẩu thuê giám định độc lập để giám định cùng lúc tất cả các tiêu chuẩn liên quan tới sản phẩm mình nhập khẩu, kết quả giám định xuất trình trong bộ hồ sơ hải quan. Theo mô hình này, sẽ không cần sự can thiệp về thủ tục của bất kỳ Bộ chuyên ngành nào. Mặc dù vậy, cách thức hiệu quả nhất cũng đòi hỏi thay đổi, cải cách triệt để nhất mà có lẽ còn cần nhiều hơn "nhận thức", quyết tâm và cả sự hy sinh thẩm quyền quản lý để làm điều này.

Xác định các loại hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành

Về bản chất, hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành xuất phát từ lí do hàng hóa này có thể gây ra rủi ro, tác động bất lợi đến các lợi ích công cộng, và vì vậy, phải kiểm soát chặt trước khi đưa lưu thông trên thị trường. Hiện tại, các Bộ chuyên ngành được giao thẩm quyền xác định, nhận diện các loại hàng hóa có tính chất này, thông qua việc xác định và ban hành danh mục hàng hóa phải KTCN thuộc lĩnh vực mình quản lý.

Tuy nhiên, trên thực tế, sau rất nhiều nỗ lực cải cách, hiện vẫn còn nhiều loại hàng hóa, sản phẩm mặc dù không có thuộc tính như trên nhưng vẫn phải chịu sự kiểm tra chuyên ngành. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát chủ yếu từ thực tế chưa có tiêu chí thống nhất cho việc xác định mặt hàng nào giữ, mặt hàng nào cần đưa ra khỏi danh mục. Thêm vào đó, việc rà soát các danh mục này vẫn chưa được tiến hành một cách "đồng bộ, triệt để".

Chủ thể tham gia vào hoạt động KTCN

Về bản chất, KTCN là việc phân tích, so sánh các đặc điểm thực tế của hàng hóa nhập khẩu với các quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng của hàng hóa như tuyên bố của DN, từ đó kết luận hàng hóa có đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn đó không. Như vậy, đây chính là hoạt động mà các tổ chức chứng nhận phù hợp, hoạt động theo quy định của pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật có đủ năng lực để thực hiện.

Theo logic này, việc kiểm tra chất lượng hàng hóa hoàn toàn có thể thực hiện được một cách khách quan thông qua hoạt động kiểm tra và cấp chứng nhận của các tổ chức chứng nhận sự phù hợp. Do đó, với hàng hóa mà chỉ phải kiểm tra chất lượng hàng hóa (không phải kiểm tra vì các mục tiêu khác như an ninh quốc phòng...) thì mục tiêu này có thể thực hiện được thông qua quy trình sau: DN thuê dịch vụ của tổ chức chứng nhận sự phù hợp để kiểm tra chất lượng hàng hóa -> DN được cấp chứng nhận -> DN xuất trình ngay cho cơ quan hải quan. Quy trình này không cần bất kỳ sự can thiệp nào về chuyên môn hay thủ tục của cơ quan quản lý chuyên ngành.

Tuy nhiên, một số thủ tục KTCN được thực hiện theo quy trình nói trên nhưng vấn đề gây ra vướng mắc là các tổ chức chứng nhận sự phù hợp được chỉ định quá ít, thậm chí chỉ có 1, gây ra tình trạng ách tắc. Tình trạng này đã được chỉ ra và tìm hướng khắc phục trong thời gian qua. Điển hình như một số Bộ quản lý đã ủy quyền/chỉ định nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định/ủy quyền thực hiện công tác KTCN đối với hàng xuất khẩu.

Hơn nữa, một số trường hợp, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa vẫn do cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện. So sánh giữa các hoạt động kiểm tra chất lượng đã được chuyển cho tổ chức giám định/chứng nhận sự phù hợp thực hiện và hoạt động mà Nhà nước vẫn độc quyền thực hiện cho thấy, về cơ bản, không nhận thấy điểm khác biệt đáng kể: tính chất (đều là xem xét các sản phẩm, hàng hóa nhất định có phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kĩ thuật theo quy định của pháp luật hay không - nếu phù hợp thì chứng nhận); phương pháp: (đều dựa trên phương pháp đánh giá theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng cho loại hàng hóa liên quan); các đối tượng được đánh giá sự phù hợp (đều được xếp vào diện sản phẩm, hàng hóa được đánh giá chất lượng trong định nghĩa tại Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa...).

Do đó, việc chuyển giao kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa sang cho các đơn vị tư nhân có thể thực hiện được đối với các loại hàng hóa mà Nhà nước đang giữ độc quyền thực hiện. Vì vậy, việc chưa mở cho các tổ chức tư nhân vào hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa trong một số lĩnh vực hiện nay cho thấy sự thiếu đồng bộ, triệt để khi thay đổi cơ chế quản lý đối với hoạt động KTCN.

Thưa ông, sự hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp - đối tượng thụ hưởng, là thước đo giá trị cho những nỗ lực cải cách từ các nhà quản lý. Tuy nhiên, những điểm vướng mắc được chỉ ra ở trên lại cho thấy nhiều điểm bất cập trong chính tư duy của các nhà soạn chính sách. Vậy ông có khuyến nghị gì nhằm cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành hàng hóa trong những năm tiếp theo? 

Theo tôi, trước tiên cần có tiêu chí thống nhất để xem xét việc loại bỏ/giữ lại các hàng hóa thuộc diện phải kiểm tra chuyên ngành để tránh tình trạng hoạt động rà soát để loại bỏ các loại hàng hóa thuộc diện này thực hiện thiếu đồng bộ, nhất quán.

Đặc biệt, cần thay đổi cơ chế quản lý đối với hoạt động KTCN một cách đồng bộ ở tất cả các lĩnh vực, theo đó, tạo cơ chế cho tư nhân tham gia vào hoạt đông kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa và Nhà nước kiểm soát thông qua điều kiện của các DN tham gia vào hoạt động này.

Đối với những lĩnh vực đã "mở" cho tư nhân tham gia thì cần có cơ chế để tránh trình trạng độc quyền của 1 tổ chức/DN thực hiên. Ví dụ: Quy định điều kiện cấp phép, bất kì DN nào đáp ứng đều có thể tham gia.

Xin cảm ơn ông với những chia sẻ trên!

Ngọc Xen

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang