(VietQ.vn) - Tuyên Quang đang từng bước chuyển mình trong phát triển kinh tế vùng cao bằng việc đẩy mạnh áp dụng các công cụ cải tiến năng suất và tiêu chuẩn chất lượng vào sản xuất. Thông qua việc đổi mới quy trình, nâng cao hiệu quả quản lý và ứng dụng khoa học công nghệ, nhiều sản phẩm đặc trưng của tỉnh như chè Shan tuyết, cam Hàm Yên, mật ong, dược liệu… ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường, hướng tới các chuỗi phân phối hiện đại và xuất khẩu.
Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh ngày càng sâu rộng, việc phát triển sản phẩm vùng cao gắn với các công cụ cải tiến năng suất và hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đang trở thành hướng đi tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và giá trị gia tăng cho địa phương.
Với tỉnh miền núi Tuyên Quang - vùng đất giàu tiềm năng về nông nghiệp, dược liệu, khoáng sản và du lịch - việc áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến, tiêu chuẩn chất lượng và đổi mới công nghệ không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm lãng phí, mà còn là công cụ minh bạch hóa để sản phẩm miền núi vượt qua các rào cản kỹ thuật thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ ra các chuỗi siêu thị hiện đại và xuất khẩu. Đây chính là sợi dây liên kết giữa khoa học công nghệ với thực tiễn sản xuất và phát triển kinh tế bền vững.

Theo TS. Trần Hậu Ngọc - Phó Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia, cả nước đang tập trung triển khai mạnh mẽ Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Các sản phẩm vùng cao nếu được sản xuất theo tiêu chuẩn, kiểm soát chất lượng gắn với truy xuất nguồn gốc, áp dụng các công cụ cải tiến năng suất, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất,… sẽ có cơ hội vươn xa hơn, chinh phục thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Ông Nguyễn Trung Hiếu - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Tuyên Quang cũng cho biết, thời gian qua, các hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Tuyên Quang đã có bước phát triển đáng kể. Hàng loạt mô hình áp dụng tiêu chuẩn và công cụ cải tiến năng suất chất lượng được triển khai tới tận cơ sở, nhất là trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, du lịch và làng nghề.
Đặc biệt, thời gian vừa qua, Tuyên Quang và Hà Giang đã phối hợp chặt chẽ trong triển khai các hoạt động của chính quyền địa phương hai cấp, chia sẻ kinh nghiệm áp dụng các mô hình cải tiến năng suất, cũng như hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển sản phẩm đặc sản vùng cao. Đây là ví dụ sinh động cho thấy khi chính quyền hai cấp đồng lòng, phối hợp cùng các cơ quan trung ương, hiệu quả thực thi chính sách sẽ được nhân lên rõ rệt.

Tại Tuyên Quang, tính đến nay đã có 37 lượt doanh nghiệp, HTX được hỗ trợ chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như ISO 9001 (Quản lý chất lượng), HACCP/ISO 22000 (An toàn thực phẩm), TQM (Quản lý chất lượng toàn diện), SA 8000 (Trách nhiệm xã hội) và GMP (Thực hành sản xuất tốt).
Hoạt động này đã giúp các cơ sở sản xuất chuẩn hóa quy trình từ khâu đầu vào đến phân phối. Bước đầu, việc áp dụng các công cụ cải tiến đơn giản như 5S đã giúp tạo môi trường làm việc gọn gàng, giảm lãng phí vật tư và tăng năng suất lao động cơ bản cho các đơn vị quy mô nhỏ.
Đồng thời, công tác chứng nhận tiêu chuẩn, quy chuẩn và truy xuất nguồn gốc được đặc biệt chú trọng, nhằm tạo "giấy thông hành" về minh bạch chất lượng cho sản phẩm đặc thù. Từ năm 2021 đến nay, Sở KH&CN Tuyên Quang đã hướng dẫn và tiếp nhận 68 hồ sơ công bố hợp chuẩn, hợp quy từ 10 doanh nghiệp, thể hiện sự tăng cường tuân thủ các quy định kỹ thuật bắt buộc.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, đã hỗ trợ 42 sản phẩm chứng nhận phù hợp theo Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN) và 08 sản phẩm phù hợp Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN). Những con số này minh chứng cho sự cam kết về chất lượng của sản phẩm miền núi khi đưa ra thị trường.
.jpg)
Quan trọng hơn, việc số hóa và minh bạch hóa nguồn gốc được triển khai hiệu quả. Tại Tuyên Quang, đã cấp 27 mã số vùng trồng và 02 mã số cơ sở đóng gói, với tổng diện tích 241 ha. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ 40.000 chiếc tem truy xuất nguồn gốc cho 04 cơ sở đã tạo bước tiến lớn về minh bạch chất lượng. Đây là tiền đề để các sản phẩm nông lâm sản đặc sản của vùng (như Cam Sành, Chè) tiếp cận tốt hơn vào chuỗi siêu thị, sàn thương mại điện tử và thị trường xuất khẩu, nơi yêu cầu nghiêm ngặt về truy xuất và an toàn thực phẩm.
Bên cạnh hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, tỉnh cũng đẩy mạnh ứng dụng KH&CN để nâng cao năng suất chất lượng, nhất là trong sản xuất thông minh. Các ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp như sản xuất rau an toàn trong nhà lưới, sản xuất giống cây lâm nghiệp chất lượng cao bằng nuôi cấy mô, sử dụng máy bay không người lái phun thuốc bảo vệ thực vật đã được triển khai.
Năm 2024, tại Tuyên Quang đã cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ cho Công ty Cổ phần chè Sông Lô - đây là minh chứng cụ thể cho định hướng ứng dụng KH&CN vào sản xuất. Những kết quả này không chỉ tăng năng suất mà còn là cơ sở vững chắc cho việc bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ vùng, giúp sản phẩm địa phương nâng cao vị thế và giá trị.

Bà Phạm Thị Minh Hải, Phó Giám đốc Công ty TNHH Thành Sơn - doanh nghiệp KH&CN của Tuyên Quang với gần 30 năm hoạt động và phát triển cho biết, công ty được thành lập với sứ mệnh nghiên cứu, bảo tồn và phát triển giá trị cây chè shan tuyết cổ thụ vùng núi Tây Côn Lĩnh, một báu vật thiên nhiên, vàng xanh của núi rừng.
Theo đó, công ty không ngừng đầu tư vào nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nhằm phát triển bền vững các dòng trà đặc sản trà shan tuyết cổ thụ và mỹ phẩm từ trà shan tuyết cổ thụ, đưa sản phẩm nông nghiệp của địa phương đến với thị trường trong và ngoài nước.
Là doanh nghiệp KH&CN, Công ty TNHH Thành Sơn xác định đổi mới công nghệ và cải tiến quản trị là yếu tố then chốt cho phát triển bền vững. Từ năm 2019, doanh nghiệp đã chủ động áp dụng hệ thống quản lý tinh gọn (Lean) và Six Sigma trong toàn bộ quy trình sản xuất, từ vùng nguyên liệu, chế biến đến đóng gói.
Một số kết quả nổi bật đạt được là: Giảm 25% năng lượng tiêu thụ trong chế biến; Tăng 20 - 30% năng suất lao động, giảm sản phẩm lỗi xuống dưới 5 %; Thời gian chu kỳ sản xuất rút ngắn 25 - 30%; Hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử được triển khai cho toàn bộ sản phẩm.

Mặt khác, công ty đã xây dựng phòng sản xuất mỹ phẩm đạt tiêu chuẩn của Sở Y tế, phát triển sản xuất thành công 24 mặt hàng mỹ phẩm từ trà shan tuyết cổ thụ Tây Côn Lĩnh. Các sản phẩm này là kết tinh của thành quả nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế, được hiện thực hóa thành các dòng sản phẩm mỹ phẩm thiên nhiên, an toàn, hiệu quả, phục vụ nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, sắc đẹp của người tiêu dùng trong đời sống hàng ngày.
Bà Phạm Thị Minh Hải nhấn mạnh: “Việc áp dụng Lean, Six Sigma cùng với đổi mới công nghệ và nghiên cứu khoa học đã giúp Thành Sơn nâng cao năng suất, giảm chi phí, cải thiện chất lượng sản phẩm, đồng thời hình thành chuỗi giá trị bền vững cho cây chè shan tuyết cổ thụ Hà Giang. Từ cây chè shan tuyết Tây Côn Lĩnh – món quà quý của thiên nhiên chúng tôi tạo ra những sản phẩm tinh túy, mang giá trị văn hóa và tự nhiên của vùng cao đến với người tiêu dùng trong nước và quốc tế, góp phần bảo tồn, phát huy nguồn tài nguyên quý cho các thế hệ mai sau".
.jpg)
Ông Phan Tiến Dũng - Phó Trưởng phòng Quản lý Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Tuyên Quang cho biết, năng suất chất lượng chính là sinh mệnh và là con đường sống còn của sản phẩm miền núi phía Bắc nói chung và Tuyên Quang nói riêng. Tuyên Quang có lợi thế đặc sản, nhưng chỉ có chất lượng ổn định và minh bạch nguồn gốc mới giúp các sản phẩm này thoát khỏi “ao làng”, chinh phục được các thị trường khó tính và mang lại giá trị gia tăng bền vững.
Chúng ta nhìn thấy những cơ hội vàng từ chính sách vĩ mô, từ làn sóng chuyển đổi số để vượt qua rào cản địa lý và từ nhu cầu thị trường về sản phẩm sạch, hữu cơ. Tuy nhiên, những thách thức về nhân lực, vốn, hạ tầng và đặc biệt là tư duy quản lý vẫn đang là lực cản nội tại. Nếu không hành động quyết liệt và đồng bộ, những cơ hội này sẽ trôi qua, khoảng cách phát triển giữa vùng miền sẽ tiếp tục nới rộng.
Ông Phan Tiến Dũng khẳng định, cần phải hành động đồng bộ, lấy KH&CN và đổi mới sáng tạo làm trọng tâm để giải quyết triệt để các thách thức về chất lượng, tạo ra bước nhảy vọt về năng suất lao động và giá trị sản phẩm. Các giải pháp phải mang tính đột phá, tập trung vào chất lượng đầu vào và tính bền vững của hệ thống.

Từ đó, ông Phan Tiến Dũng đề xuất 3 kiến nghị: Thứ nhất, do hiện nay nguồn lực hỗ trợ còn dàn trải, thiếu tính bền vững và chưa gắn kết chặt chẽ với các sản phẩm chủ lực của vùng chúng ta không thể tăng năng suất chất lượng nếu không kiểm soát chất lượng đồng bộ từ gốc. Vì vậy, cần chuyển trọng tâm hỗ trợ từ việc áp dụng hệ thống quản lý chung chung sang hỗ trợ chuyên sâu, toàn diện cho các sản phẩm OCOP và đặc sản chủ lực có khả năng cạnh tranh cao của tỉnh.
Thứ hai là sự thiếu hụt nhân lực chuyên môn tại chỗ và nền tảng dữ liệu chung để quản lý chất lượng. Do đó, cần phải đẩy mạnh số hóa quản lý chất lượng đồng thời ưu tiên đào tạo đội ngũ chuyên gia nòng cốt tại địa phương.
Đặc biệt tập trung bồi dưỡng cán bộ quản lý chất lượng nội bộ của doanh nghiệp và HTX theo hình thức "cầm tay chỉ việc". Mục tiêu là giúp họ có đủ năng lực tự duy trì, kiểm soát hệ thống sau khi được hỗ trợ, giải quyết dứt điểm vấn nạn "chứng chỉ ngủ quên" và xây dựng văn hóa chất lượng tự chủ.
Thứ ba là nguồn kinh phí hỗ trợ hiện nay còn hẹp và tính phối hợp giữa các ngành, các chương trình còn hạn chế, làm giảm hiệu quả nhân rộng. Bởi vậy, cần bổ sung và hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính đặc thù, đồng thời chỉ đạo lồng ghép các chương trình OCOP, xúc tiến thương mại, phát triển nông thôn mới với chương trình năng suất chất lượng. Sự lồng ghép này sẽ giúp khai thác hiệu quả các nguồn lực và tạo ra tác động tổng thể lên toàn bộ nền kinh tế vùng.
Nội dung - Thiết kế: Thanh Tùng


