Rào cản kỹ thuật mới với các nhà sản xuất thép châu Á tại thị trường Châu Âu
(VietQ.vn) - Các doanh nghiệp xuất khẩu thép vào EU sẽ bị đánh thuế carbon nếu sản phẩm có lượng phát thải vượt ngưỡng theo tiêu chuẩn của EU. Đây là những rào cản kỹ thuật mới với các nhà sản xuất thép châu Á, trong đó có cả Việt Nam.
Nhãn hàng hóa - ‘hàng rào’ ngăn chặn hàng giả, hàng nhái
Chuẩn hóa nông sản để vượt qua rào cản thương mại, giữ vững thị trường xuất khẩu
Sửa luật để gỡ rào cản, nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm Việt
Thách thức lớn với các ngành xuất khẩu chủ lực
Việc Liên minh châu Âu (EU) chính thức triển khai Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon (CBAM) từ năm 2026 đang tạo áp lực lớn cho các ngành xuất khẩu chủ lực của châu Á, trong đó có thép, nhôm, xi măng và phân bón. Với tiêu chuẩn phát thải nghiêm ngặt, CBAM được ví như hàng rào kỹ thuật mới buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi để không bị đánh bật khỏi thị trường EU.
Trước thách thức của biến đổi khí hậu, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức áp dụng Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon (Carbon Border Adjustment Mechanism – CBAM). Cơ chế này dự kiến có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, sau giai đoạn thử nghiệm từ năm 2023 đến 2025. Theo đó, các doanh nghiệp xuất khẩu vào EU sẽ bị đánh thuế carbon nếu sản phẩm có lượng phát thải vượt ngưỡng theo tiêu chuẩn của EU.
Theo Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), EU – thị trường chiếm khoảng 30% sản lượng thép dẹt xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2023 – 2024, hiện đang áp dụng hệ thống hạn ngạch thuế quan (Tariff Rate Quota – TRQ) đối với các loại thép nhập khẩu. Hạn ngạch được phân bổ theo nguyên tắc “đăng ký trước, cấp trước” hoặc dựa trên lịch sử nhập khẩu của từng quốc gia, tùy thuộc vào từng sản phẩm cụ thể và được điều chỉnh hằng năm.

Từ quý II/2025, EU bắt đầu giới hạn trần xuất khẩu theo từng quốc gia, nhằm siết chặt hơn lượng thép nhập khẩu. VDSC cho rằng cơ chế TRQ sẽ được duy trì đến hết giai đoạn 2025 – 2026, trước khi hoàn toàn chuyển sang áp dụng CBAM. Khi đó, các nhà nhập khẩu phải mua tín chỉ carbon dựa trên lượng phát thải, khiến các nhà sản xuất thép châu Á sử dụng công nghệ lò cao (BOF) mất đi lợi thế về giá thành.
Theo các chuyên gia, khi CBAM có hiệu lực sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất khẩu sản phẩm thép Việt Nam vào EU. Với ngành nhôm, bà Lý Thị Ngân, Chánh văn phòng Hiệp hội Nhôm Việt Nam cho biết ở nước ta ngành công nghiệp bauxite-alumin mới chỉ phát triển trong hơn 10 năm trở lại đây. Toàn bộ lượng alumin sản xuất tại Việt Nam đều được xuất khẩu. Việt Nam hiện chưa có năng lực luyện nhôm, doanh nghiệp trong ngành nhôm vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào nhôm thỏi, phôi nhôm nhập khẩu để sản xuất các sản phẩm từ nhôm.
Điện phân nhôm tạo phát thải khí nhà kính nhiều nhất. Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa có giải pháp khắc phục. Ngoài ra, khâu luyện alumin cũng tiêu tốn nhiều năng lượng và tạo phát thải khí nhà kính lớn do công nghệ luyện vẫn truyền thống, đa số doanh nghiệp nhôm là nhỏ và vừa nên năng lực tài chính, con người, công nghệ hạn chế… Mới chỉ có số ít doanh nghiệp quan tâm tới sản xuất nhôm xanh. Bên cạnh đó, thị trường nhôm trong nước còn dễ tính, nhu cầu nhận thức của người tiêu dùng về nhôm xanh chưa có, nên việc thúc đẩy phát triển nhôm xanh chưa được quan tâm. Hiện nay có 26 cơ sở trong ngành thuộc danh mục các doanh nghiệp phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính và giảm phát thải khí nhà kính bắt buộc.
Trong lĩnh vực xi măng, ông Lương Đức Long, Hiệp hội xi măng Việt Nam cho biết cả nước hiện có 57 nhà máy sản xuất xi măng. Tuy nhiên, ngành này chiếm tới 57% khí CO₂ trong quá trình sản xuất. Than đốt chiếm 36% lượng phát thải CO₂, điện chiếm dưới 6% phát thải.
Chính vì vậy, ông Long cho rằng khi EU áp dụng CBAM, clanke, xi măng Việt Nam nếu xuất khẩu vào EU sẽ chịu mức thuế carbon rất lớn do suất phát thải cao, vì chi phí năng lượng sản xuất cao và tỉ lệ sử dụng năng lượng tái tạo thấp.
Tương tự, với ngành phân bón, hiện tại Việt Nam chưa xuất khẩu sản phẩm phân bón vô cơ sang EU, song cũng là ngành có tỷ lệ phát thải khí nhà kính lớn trong quá trình sản xuất.
Doanh nghiệp cần thích nghi nhanh để vượt rào cản CBAM
Để ứng phó với CBAM, từ tháng 8/2024, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo số 6082/VPCP-NN, yêu cầu các bộ, ngành liên quan xây dựng và triển khai các nhiệm vụ ứng phó. Trong đó, Bộ Công Thương được giao làm đầu mối xây dựng đề án ứng phó CBAM, thúc đẩy đối thoại quốc tế, đàm phán và nghiên cứu khả năng CBAM sẽ mở rộng áp dụng với các mặt hàng khác. Hiện có 4 nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU bị ảnh hưởng bởi CBAM, bao gồm: Sắt thép, nhôm, xi măng và phân bón – trong đó sắt thép chiếm tới 96% giá trị xuất khẩu của nhóm này.
Ông Phạm Công Thảo, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNSteel) nhận định: “Hiện tại CBAM đang ở giai đoạn 1 (1/10/2023 – 31/12/2025), các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp thép buộc phải khai báo mức phát thải. Từ năm 2026, việc bắt buộc mua chứng chỉ phát thải sẽ làm tăng chi phí, khiến các doanh nghiệp khó cạnh tranh nếu không chủ động giảm phát thải trong sản xuất”.
Bên cạnh đó, quy trình khai báo phát thải cũng được đánh giá là hàng rào kỹ thuật mới, có thể gây trở ngại trong thương mại nếu không được chuẩn hóa, minh bạch.
Theo ước tính của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành thép toàn cầu có thể mất khoảng 4% giá trị xuất khẩu dưới tác động của CBAM, sản lượng cũng có thể giảm 0,8%, cùng với mức độ cạnh tranh bị ảnh hưởng rõ rệt.
Theo các chuyên gia, CBAM mang lại một bước chuyển mình đáng kể trong chính sách môi trường và thương mại quốc tế. Đây là một bước tiến quan trọng nhằm thực thi mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của EU, cũng như đảm bảo công bằng thương mại và bảo vệ các ngành công nghiệp chiến lược của EU.
CBAM, với việc áp thuế nhập khẩu cho các sản phẩm và điện từ các quốc gia thứ ba không tuân thủ tiêu chuẩn phát thải GHG của EU, đã tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp trên toàn cầu, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất thép, xi măng, phân bón. Vì vậy các doanh nghiệp cần nhanh chóng thích nghi với các quy định mới, cập nhật hệ thống thông tin và xem xét lại mô hình kinh doanh hiện tại. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực lớn không chỉ về mặt kỹ thuật, mà còn cả về chiến lược, để tuân thủ các quy định và tránh những hậu quả tài chính không mong muốn.
An Dương (T/h)









