Phòng tránh nguy cơ suy giảm nghiêm trọng đa dạng sinh học

author 07:30 02/12/2014

ĐDSH của Việt Nam cần phải đươc quan tâm, phòng tránh nguy cơ suy giảm nghiêm trọng, dẫn đến một số loài quý hiếm bị tuyệt chủng.

Sự kiện: Hoạt động Khoa học & Công nghệ

Hội thảo “Bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) và Quỹ Môi trường Toàn cầu tổ chức. 

Tới dự và chủ trì Hội thảo có ông Phan Xuân Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội; Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Trần Quốc Khánh; ông Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; bà Louise Chamberlain, Giám đốc Quốc gia UNDP tại Việt Nam. 

Tham dự Hội thảo còn có đại biểu quốc hội của 15 tỉnh có ĐDSH cao trên toàn quốc, các chuyên gia đến từ Ủy ban của Quốc hội, Bộ KH&CN, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công an...

Toàn cảnh Hội nghị đa dạng sinh học

Toàn cảnh Hội nghị đa dạng sinh học

Phát biểu tại Hội thảo, ông Phan Xuân Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học ,Công nghệ & Môi trường của Quốc hội cho rằng: Việc tăng cường quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ góp phần bảo vệ, gìn giữ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau mà còn góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ cho các yêu cầu của cuộc sống. Vì vậy, ĐDSH của Việt Nam cần phải đươc quan tâm, phòng tránh nguy cơ suy giảm nghiêm trọng, dẫn đến một số loài quý hiếm bị tuyệt chủng. 

Theo Bộ Tài nguyên & Môi trường, Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính ĐDSH cao. Hiện tại, Việt Nam có 164 khu bảo tồn rừng đặc dụng với diện tích bảo tồn ĐDSH trên 2,2 triệu ha, dự kiến đến năm 2020 sẽ nâng lên 176 khu, tương đương 2,4 triệu ha với các hệ sinh thái (HST) đặc trưng, điển hình như HST núi đá vôi, đồng cỏ, cửa sông, ven biển... tạo nên môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới. Tính đa dạng về HST, sự phong phú và giàu có về các loài và nguồn gen làm cho ĐDSH có vai trò, giá trị vô cùng to lớn cho đảm bảo an ninh lương thực và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Trước bối cảnh đó, nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp bách trong việc bảo tồn ĐDSH, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về ĐDSH. Quốc hội đã có những quyết sách quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý cho công tác bảo tồn ĐDSH bằng việc thông qua các Luật như: Luật Thuỷ sản, năm 2003; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 và đặc biệt là Luật ĐDSH năm 2008. Mới đây nhất, Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 03/06/2013, thể hiện quyết tâm của Chính phủ bằng Chiến lược quốc gia về ĐDSH phấn đấu đến năm 2020 “Các HST tự nhiên quan trọng, loài, nguồn gen nguy cấp, quý, hiếm được bảo tồn và sử dụng bền vững nhằm góp phần phát triển đất nước theo định hướng nền kinh tế xanh, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Đây là mục tiêu đầy thách thức với công tác quản lý nhà nước về bảo tồn ĐDSH.

Để làm được điều đó, việc đổi mới trong quản lý ĐDSH cần đưa lên hàng đầu. Trong đó vấn đề cấp bách là tăng cường thể chế và hiệu quả thống nhất quản lý nhà nước về ĐDSH trên 03 khía cạnh: Giải quyết tình trạng bất cập và vướng mắc về pháp luật và chính sách bảo tồn và phát triển ĐDSH; giảm thiểu hiện trạng chồng chéo, thiếu tập trung về thẩm quyền, chức năng của các hệ thống quản lý nhà nước về bảo tồn ĐDSH; giải quyết tình trạng bất cập về đầu tư cho các mục tiêu và cơ sở bảo tồn ĐDSH.

Bùi Hiếu - TTKHCN

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang