Tiềm năng phát triển kinh tế sáng tạo tại Việt Nam
Cơ hội, thách thức phát triển kinh tế sáng tạo tại Việt Nam
Khung pháp lý về kinh tế xanh: Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam
Theo TS. Trần Thị Hồng Minh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu sâu rộng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải đối diện với những rủi ro, thách thức liên quan đến chất lượng, mức độ bền vững của tăng trưởng. Tăng trưởng vẫn dựa đáng kể vào gia tăng nguồn lực đầu vào và các ngành thâm dụng lao động/tài nguyên. Đóng góp của các nhân tố gắn trực tiếp với cải thiện chất lượng, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo còn chưa tương xứng với kỳ vọng.
Trong khi đó, chúng ta đang hướng tới tầm nhìn, mục tiêu phát triển dài hạn, cụ thể là trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Để hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển này, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao là một điều kiện tiên quyết. Dù vậy, chúng ta đã và đang phải đối mặt với những thách thức lớn khi mô hình tăng trưởng truyền thống dựa trên gia tăng vốn, lao động phổ thông, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đã chạm ngưỡng giới hạn. Trong bối cảnh ấy, chúng ta phải không ngừng đổi mới, cả về tư duy, cách làm và mô hình để “sáng tạo” ra những không gian mới cho tăng trưởng kinh tế.
TS. Trần Thị Hồng Minh cho biết, khái niệm kinh tế sáng tạo đã hình thành và không ngừng hoàn thiện trong hơn ba thập kỷ qua. Lợi ích của kinh tế sáng tạo đã sớm được thực chứng ở nhiều quốc gia, kể cả các nước đang phát triển ở khu vực châu Á. Kinh nghiệm quốc tế ở nhiều nước, trong đó có Cộng hòa liên bang Đức, đã cho thấy tư duy về kinh tế sáng tạo giúp hoàn thiện chính sách để các ý tưởng sáng tạo có đủ điều kiện, chu trình từ hình thành, sản xuất, cung ứng, phân phối và kể cả xuất khẩu, từ đó mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế, lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp, và thu nhập cao hơn cho người lao động.
Quan trọng hơn, đặt trọng tâm vào khai thác ý tưởng, sức sáng tạo của con người và bảo vệ tài sản trí tuệ từ quá trình sáng tạo, kinh tế sáng tạo đã cho thấy một tiềm năng vô cùng lớn, thậm chí có thể nói là “không giới hạn”. “Tôi tin rằng, sự phát triển của các công nghệ mới (trong đó có AI) cũng không làm mất đi những tiềm năng sáng tạo ấy, mà đòi hỏi nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải có cách tiếp cận chiến lược, toàn diện hơn để chính những công nghệ ấy giúp “nâng bước” sức sáng tạo của con người”, bà Minh nói.
Đồng thời, báo cáo “Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam” của CIEM cũng đưa ra các khuyến nghị nhằm phát triển kinh tế sáng tạo ở Việt Nam trong thời gian tới. Thứ nhất, Việt Nam cần hoàn thiện khung chính sách vững chắc để nuôi dưỡng kinh tế sáng tạo, gắn với tạo không gian, động lực và sự yên tâm cho các chủ thể sáng tạo. Thứ hai, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ số. Thứ ba, tăng cường phát triển giáo dục và đào tạo kỹ năng. Thứ tư, thúc đẩy hợp tác và kết nối. Thứ năm, tiếp tục phát triển thị trường trong nước và quốc tế cho các sản phẩm sáng tạo của Việt Nam. Thứ sáu, tăng cường tính bền vững và trách nhiệm xã hội trong các doanh nghiệp liên quan tới sáng tạo.
Đóng góp ý kiến cho báo cáo của CIEM, nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam có những cơ hội quan trọng cho phát triển kinh tế sáng tạo, nhờ chuyển đổi số, sự phục hồi và vươn lên mạnh mẽ của ngành du lịch, thị trường trong nước có quy mô tương đối lớn và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ ra những thách thức mà Việt Nam phải xử lý những thách thức liên quan đến cạnh tranh từ thị trường quốc tế, khả năng thích ứng trước tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ và sức ỳ của thể chế.
Hoàng Bách