Nghiên cứu thành công chế phẩm vi sinh phổ rộng để xử lý ô nhiễm hữu cơ

author 14:56 26/03/2020

(VietQ.vn) - Các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ môi trường, Viện Hàn Lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam vừa nghiên cứu thành công một loại chế phẩm vi sinh phổ rộng cho ngành thủy sản.

Sự kiện: Chuyên đề: NÂNG CAO NĂNG SUẤT CHẤT LƯỢNG

Theo ghi nhận của Bộ Tài Nguyên & Môi trường, hiện nay nguồn nước mặt và nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của người dân đang ngày càng bị ô nhiễm chất hữu cơ nặng nề.

Để đánh giá mức độ ô nhiễm chất hữu cơ trong nước sinh hoạt, các nhà khoa học dùng chỉ số pecmanganat. Theo quy định của Bộ Y tế thì chỉ số pecmanganat cho phép đối với nước sinh hoạt là 4mg/l, đối với nước ăn uống là 2mg/l.

Nguyên nhân đáng kể ở đây chính là sự đô thị hóa không đi kèm với các biện pháp bảo vệ môi trường. Các xí nghiệp sản xuất xả hàng tấn chất thải công nghiệp ra trực tiếp sông, hồ mà không qua phương thức xử lý nào.

Do hạn chế trong ý thức của người dân tại làng nghề nhỏ lẻ và các hộ gia đình nuôi trồng theo cách cũ, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu vẫn bị sử dụng tràn lan thiếu kiểm soát gây thấm vào đất, nước. Chất thải nông nghiệp lại tiếp tục xả thẳng trực tiếp các chất thải ra ao, hồ, sông, suối gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.

Hệ lụy gây ô nhiễm môi trường là một trong những thực trạng đáng lo ngại của ngành kinh tế mang lại nguồn lợi xuất khẩu xếp thứ tư thế giới này của Việt Nam. Tình trạng dư thừa chất kháng sinh, hóa chất, chất hữu cơ (thức ăn chăn nuôi, phân thải),... ở các vùng nuôi trồng và khai thác thủy sản không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người, vật nuôi mà còn tác động lâu dài đến hệ sinh thái.

Viện Công nghệ môi trường đã nghiên cứu thành công chế phẩm sử dụng chủng vi sinh phổ rộng cho ngành thủy sản 

Đặc biệt, các hóa chất có trong nước bị ô nhiễm sau khi tương tác với oxy tạo ra một hợp chất có tên là Nitrit. Nitrit nếu được đưa vào cơ thể sẽ dẫn đến hiện tượng thiếu oxy trong máu, đặc biệt với hệ miễn dịch của trẻ em dưới 6 tháng tuổi còn non yếu có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Không những vậy, nitrit khi kết hợp với các axit amin bên trong cơ thể chúng ta sẽ hình thành chất gây ung thư (nitrosamine) là nguyên nhân gây nhiễm độc, ung thư gan, đột biến gen, bệnh về phổi, các bệnh về da liễu,…

Đứng trước những nguy cơ trên, để giảm thiểu tác động tiêu cực của việc ô nhiễm sinh học, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ môi trường, Viện Hàn Lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam khoa học vừa tiến hành nghiên cứu thành công một loại chế phẩm vi sinh phổ rộng hoạt tính cho ngành thủy sản có cả môi trường nước mặn và nước lợ. Kết quả này hứa hẹn giúp giải quyết một trong những vấn đề thách thức rất lớn của ngành thủy sản là ô nhiễm chất thải hữu cơ. 

Cục Sở Hữu Trí Tuệ cho biết, để thực hiện nghiên cứu, nhóm nghiên cứu của kỹ sư Huỳnh Đức Long ở Trung tâm công nghệ môi trường (Đà Nẵng), thuộc Viện công nghệ môi trường, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã lấy mẫu bùn đáy ở rất nhiều nơi, từ âu thuyền Thọ Quang, các cảng cá ven biển, các vuông nuôi thủy sản nước lợ, nước mặn,... để phân lập và tuyển chọn các chủng vi sinh vật để xử lý ô nhiễm hữu cơ. 

Ô nhiễm không khí có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới xương(VietQ.vn) - Tác động của ô nhiễm không khí đối với sức khỏe con người là không thể phủ nhận, tuy nhiên, mới đây các nhà nghiên cứu còn tìm ra điều này cũng khiến cho chất lượng xương kém hơn.

Trải qua một loạt công đoạn từ tuyển chọn cho đến nhân giống cấp 1 và nhân giống cấp 2, nhóm nghiên cứu đã tìm ra 3 loại vi khuẩn phù hợp: chủng Bacillus subtilis AN1.3; chủng Bacillus amyloliquefaciens TB10; chủng Sphingobacterium mizutaii B8. Các chủng vi khuẩn này sinh trưởng ở nhiệt độ từ 15-40oC, có khả năng sinh tổng hợp mạnh các enzym ngoại bào như xenlulaza, amylaza, proteaza cao - giúp thúc đẩy nhanh quá trình phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ trong nước và trong bùn đáy.

Bên cạnh vi khuẩn, một thành phần khác không kém phần quan trọng trong chế phẩm vi sinh xử lý nước thải là chất mang - thành phần cung cấp dinh dưỡng và khoáng chất, đồng thời làm giá thể để các vi sinh vật bám vào.

Việc lựa chọn chất mang rất quan trọng bởi chúng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình bảo quản, vận chuyển và sử dụng chế phẩm. Dựa trên những kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ môi trường, kỹ sư Huỳnh Đức Long và các cộng sự đã tìm ra công thức phối trộn chất mang tối ưu: 10% cám gạo, 10% vỏ trấu, 40% than bùn và 40% diatomit. Sau khi trộn đều các chất mang và sấy khô ở 130oC, nhóm nghiên cứu đã bổ sung thêm 10% dịch giống cấp 2 của ba chủng vi khuẩn trên và ép thành viên nén.

Sau 63 ngày theo dõi trong phòng thí nghiệm (thử nghiệm với mẫu nước lấy từ âu thuyền Thọ Quang, Đà Nẵng), chế phẩm có khả năng cải thiện chất lượng nước rõ rệt so với trước khi xử lý, các chỉ tiêu COD (nhu cầu oxy hóa học), BOD (nhu cầu oxy sinh học) - hai tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ ô nhiễm nước và NH4+ ở mẫu nước xử lý đều đạt quy chuẩn chất lượng nước QCVN 08:2015/BTNMT.

Nhờ khả năng ứng dụng cao chế phẩm vi sinh chịu mặn dùng để xử lý nước bùn đáy và nước bị ô nhiễm chất hữu cơ ở các vùng nước lợ và nước mặn của kỹ sư Huỳnh Đức Long và các cộng sự đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 2-0002100, công bố ngày 25/09/2019.

 An Dương 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang