Giao lưu trực tuyến

Giao lưu trực tuyến: Nâng cao năng lực cạnh tranh DN gắn với quyền lợi người tiêu dùng

author 14:05 08/09/2017

(VietQ.vn) - Từ 14h30 - 17h hôm nay, khách mời tham gia chương trình GLTT: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với quyền lợi người tiêu dùng" sẽ trả lời trực tiếp các câu hỏi của độc giả trên Chất lượng Việt Nam online (VietQ.vn).

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng với khu vực và thế giới, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ ngày càng trở nên gay gắt. Bài toán đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tập trung nâng cao công nghệ để bảo đảm và duy trì khả năng tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới cho sản phẩm. Tăng cường ứng dụng tiến bộ KH&CN, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa đồng thời thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với người tiêu dùng, thực thi trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của doanh nghiệp.

Tổng Biên tập Trần Văn Dư tặng hoa các khách mời tham dự giao lưu trực tuyến ''Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với quyền lợi người tiêu dùng''

Tổng Biên tập Trần Văn Dư tặng hoa Phó Tổng cục trưởng Hà Minh Hiệp và các khách mời khác tham dự giao lưu trực tuyến "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với quyền lợi người tiêu dùng"

Nhằm tuyên truyền các chính sách khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp về nâng cao năng lực canh tranh gắn với quyền lợi người tiêu dùng. Phản ánh thực trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Đề xuất giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chia sẻ các bài học kinh nghiệm thành công của doanh nghiệp trong việc xây dựng hình ảnh và tạo niềm tin với người tiêu dùng.

Trong chương trình giao lưu trực tuyến "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với quyền lợi người tiêu dùng", các khách mời sẽ trả lời trực tiếp những câu hỏi của độc giả gửi về chương trình. Ngoài ra, chương trình còn có sự tham gia của đại diện đến từ các doanh nghiệp, người tiêu dùng.

Khách mời tham dự gồm: 

- Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

- Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam

- TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Bạn đọc quan tâm có thể gửi câu hỏi ngay bây giờ về địa chỉ email: [email protected] hoặc số điện thoại: 0243.7567804.

Các khách mời tham gia chương trình giao lưu (lần lượt từ trái qua phải) gồm: TS Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia Kinh tế; Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội các nhà Bán lẻ Việt Nam; Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

 

NỘI DUNG BUỔI GIAO LƯU:
Đức Lê - [email protected]
Hiện nay người tiêu dùng quan tâm tới máy lọc nước, có ý kiến cho rằng máy lọc nước đang có vấn đề. Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Tổng cục TCĐLCL đã có hành động gì về vấn đề này?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
 Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Hà Minh Hiệp trong chương trình giao lưu trực tuyến

Hiện nay, máy lọc nước đang được sử dụng rất rộng rãi trên toàn quốc. Máy lọc nước dùng trong gia đình bắt đầu xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ cuối năm 1999 đầu năm 2000. Tại thời điểm đó, máy lọc nước sử dụng chủ yếu các lõi lọc và màng lọc để loại bỏ những cặn thô trong nước. Năm 2003 bắt đầu đánh dấu việc áp dụng công nghệ thẩm thấu ngược (Reverse Osmosis (R.O) vào các máy lọc nước gia dụng, Tuy nhiên máy lọc nước R.O có một nhược điểm rất lớn, đó là lượng nước đào thải quá cao do cơ chế lọc luôn đào thải lượng nước không thể tách được nước tinh khiết ra khỏi nguồn nước sử dụng.

Hiện tại ở Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh máy lọc nước quản lý chất lượng sản phẩm của mình bằng việc xây dựng tiêu chuẩn cơ sở (TCCS) cho các sản phẩm của mình và công bố tiêu chuẩn áp dụng là TCCS. Nội dung của các TCCS chỉ đưa ra một số chỉ tiêu kích thước, thông số cơ bản của máy, vật liệu của các bộ phận lọc và đưa ra chỉ tiêu kiểm soát chất lượng nước đầu ra theo các QCVN của Bộ Y tế (các doanh nghiệp chỉ thử nghiệm chất lượng nước đầu ra theo quy định của “QCVN 6-1: 2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với nước khoáng thiên nhiên và nước uống đóng chai“ để chứng minh với khách hàng về chất lượng máy lọc của mình) chưa đưa ra được các yêu cầu tính năng, yêu cầu an toàncũng như các chỉ tiêu hiệu suất sử dụng nước của máy lọc.Trên thế giới hiện nay chỉ duy nhất có Nhật Bản có tiêu chuẩn đưa ra các chỉ tiêu kỹ thuật cũng như đưa ra các yêu cầu về tính năng, hiệu suất sử dụng nước cho máy lọc nước sử dụng màng lọc dạng R.O, là JIS S 3201 (Testing methods for household water purifiers – Phương pháp thử cho Máy lọc nước dùng trong gia đình) và JIS S 3241 (household water purifiers – Máy lọc nước dùng trong gia đình).Chính vì vậy, để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, và có căn cứ để kiểm soát chất lượng máy lọc nước, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã phê duyệt kế hoạch giao Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam tổ chức tiến hành xây dựng 02 TCVN về Máy lọc nước dùng trong gia đình trên cơ sở tham khảo hai tiêu chuẩn JIS của Nhật bản là: JIS S 3201 (Testing methods for household water purifiers – Phương pháp thử cho Máy lọc nước dùng trong gia đình) và JIS S 3241 (household water purifiers – Máy lọc nước dùng trong gia đình). Dự kiến sẽ công bố trong tháng 12/2017.

Nguyễn Phương Linh - [email protected]
Bà ý kiến như thế nào khi có những điều khoản qui định cụ thể về thông tin sản phẩm, về hợp đồng giao kết, bảo hành sản phẩm, giải quyết khiếu nại, thu hồi sản phẩm lỗi thuộc về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng thế nhưng việc này chưa được DN thực hiện đầy đủ?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Theo tôi, DN chưa thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật nói trên là do một số lý do như sau:

1. DN chưa biết đến Luật bảo vệ quyền lợi NTD

2. Do không tự giác tuân thủ các quy định pháp luật, không muốn thực hiện trách nhiệm của mình.

3. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý còn chưa có tác dụng răn đe.

Để khắc phục tình trạng trên, cần phổ biến sâu rộng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong cộng đồng DN cũng như tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.

Nguyễn Thùy Dương - [email protected]
Thực tế cho thấy tình hình vi phạm quyền lợi người tiêu dùng vẫn diễn ra khá phổ biến với mức độ nghiêm trọng và ở nhiều lĩnh vực, theo ông vai trò của DN như thế nào trong thực tế này?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế
Theo Hiến pháp Việt Nam năm 2013 (Điều 38 và Điều 43): Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường.

Theo Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện hành, người tiêu dùng có 8 quyền cơ bản sau:

1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.

2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.

3. Được lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

4. Được góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

5. Được tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

6. Được yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.

7. Được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.

Đồng thời, tại Điều 9, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng quy định 2 nghĩa vụ chính của người tiêu dùng là:

1. Kiểm tra hàng hóa trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình và của người khác; thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng hàng hóa, dịch vụ

2. Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hóa, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

 Đặc biệt, kể từ năm 2016, nhằm cụ thể hóa và tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cũng như huy động, tập trung sự quan tâm, hưởng ứng, tham gia của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Thủ thướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 15/3 hàng năm là Ngày Quyền của người tiêu dùng Việt Nam.

Mới đây, ngày 15-3-2016 tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã chính thức tổ chức công bố “Ngày quyền của người tiêu dùng Việt Nam”, với chủ đềcho các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2016 là “Quyền được an toàn của người tiêu dùng”. Hiện tại đã có 50/63 tỉnh, thành phố triển khai kế hoạch thực hiện các hoạt động hưởng ứng trong dịp này.

Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực trong củng cố nhận thức, hoàn chỉnh cơ sở pháp lý và triển khai thực hiện các chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của người tiêu dùng, cả về tuyên truyền, phố biến pháp luật; kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng.

Việt Nam hiện có 51 hội, tổ chức xã hội tham gia công tác bảo vệ người tiêu dùng trên cả nước. Theo Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), mỗi năm có khoảng 3.000 đến 4.000 vụ việc khiếu nại được các hội tư vấn, hỗ trợ. Đặc biệt, trong đó, số vụ việc thành công chiếm tỷ lệ hơn 80%.  

Thực tế thời gian qua cho thấy: Trên cả nước, còn nhiều bất cập và hạn chế về cơ sở pháp lý, nhận thức, sự quan tâm và hiệu lực, hiệu quả triển khai trên thực tế trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng nên còn khá phổ biến, nhất là ở lĩnh vực an toàn thực phẩm, an toàn thông tin, hàng hoá kém chất lượng. Bản thân người tiêu dùng cũng ngại khiếu nại, nhất là do thủ tục, thời gian giải quyết lâu, chi phí cao. Một số vụ kéo dài và phức tạp do khiếu nại sai hoặc thiếu hợp tác giữa người tiêu dùng với cơ quan chức năng; còn nhà sản xuất thì thiếu tôn trọng khách hàng, lạm dụng kỹ thuật về hàng hóa để chối bỏ trách nhiệm.

Trong bối cảnh hiện nay, quyền của người tiêu dùng tùy thuộc ngày càng chặt chẽ vào sự củng cố nhận thức, sự hoàn thiện luật pháp và sự chung tay hành động mạnh mẽ hơn nữa từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, cũng như cộng đồng người tiêu dùng và doanh nghiệp; Vì vậy, một mặt, cần khuyến khích doanh nghiệp tăng cường công nghệ sản xuất xanh và đạo đức kinh doanh; quy chuẩn và minh bạch hóa các chỉ tiêu chất lượng; phát triển các dịch vụ hậu mãi thân thiện, tiện lợi, chất lượng cao... Mặt khác, cần tăng cường năng lực thể chế bảo vệ quyền người tiêu dùng từ trung ương đến địa phương; điều chỉnh và cụ thể hóa các chính sách, cơ chế hoạt động, quy trình tiếp nhận, xử lý tranh chấp giữa người tiêu dùng và người cung cấp hàng hóa; luật hóa các tiêu chuẩn chất lượng và các “hàng rào kỹ thuật” quốc gia; đề cao sự minh bạch nguồn gốc và chất lượng sản phẩm. Kiện toàn bộ máy và phân công rõ ràng, trách nhiệm cá nhân cụ thể, tăng cường kết nối và kiểm tra theo quy trình đồng bộ, với các chế tài nghiêm khắc nhất, nhận diện và loại trừ nhanh chóng, kiên quyết những hành vi vô cảm, vô trách nhiệm, vô đạo đức và những biểu hiện phi nhân văn, ích kỷ; đồng thời hỗ trợ tích cực cho các tổ chức xã hội, bảo vệ quyền an toàn người tiêu dùng.

Trước mắt, cần sớm xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giai đoạn 2016-2020. Trong đó, nêu rõ những hoạt động trọng tâm, trách nhiệm cụ thể của Bộ Công Thương, các tỉnh thành phố và các cơ quan liên quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; bố trí các nguồn lực phù hợp.

Các bộ, ban, ngành địa phương cần được phân công và phối hợp trách nhiệm rõ ràng, cụ thể, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và cá nhân được giao; đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật; Đồng thời tăng cường thanh tra kiểm tra, nhận diện đúng và nhanh chóng, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan tổ chức tham gia công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khuyến khích thành lập và giới thiệu các tổng đài, số điện thoại nóng, các trang tin và các văn phòng bảo vệ người tiêu dùng nhằm tăng cường kết nối, cập nhật các thông tin về Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng; tổ chức các hội thảo và tăng cường các hoạt động tuyên truyền đa dạng, thiết thực khác xung quanh chủ đề quyền của người tiêu dùng, nhằm mang đến cho người tiêu dùng cái nhìn rõ hơn về quyền của mình và cách thức hợp tác với các cơ quan chức năng để giải quyết quyền lợi của mình.

Quyền được an toàn là một trong những quyền của mọi công dân trong một xã hội văn minh. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vừa là thước đo nhân quyền, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước…

Hoàng Thị Hải Anh - [email protected]
Xin cho biết các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng máy lọc nước, sau công nghệ Hydrogen Kangaroo sẽ còn tiếp cận công nghệ nào khác để nâng cao chất lượng nước hay không?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Tiêu chuẩn cao nhất đánh giá chất lượng nước đầu ra là QCVN6-01:2010 của Bộ Y tế. Hiện nay tất cả các máy lọc nước của Kangaroo đang được đánh giá theo tiêu chuẩn này. Trong thời gian tới chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm các ứng dụng của máy lọc nước Kangaroo Hydrogen đồng thời nghiên cứu thêm những tính năng, công năng mới trong máy lọc nước Kangaroo.

Dương Hòa - [email protected]
Thưa ông, trong vài năm gần đây, chúng ta thực hiện mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ bề rộng sang chiều sâu. Theo ông, chiều sâu đó đã đạt được ở mức độ nào?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Chiều sâu của nền kinh tế là một khái niệm rộng, mở và có định tính cao, tùy thuộc lớn vào bản thân DN, cũng như mô hình thể chế… Về thể chế, chúng ta còn chậm đổi mới, chưa có những đột phá lớn, trừ các thủ tục quản lý nhà nước trong môi trường đầu tư; về tái cơ cấu kinh tế, ta mới đi những bước đầu tiên chưa rõ nét; khu vực DN thì vừa có một số thành tích vừa còn nhiều hạn chế như đã nêu trên…

Báo cáo về Đổi mới sáng tạo toàn cầu được Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thuộc Liên Hợp Quốc, phối hợp với Trường Kinh doanh Insead (Pháp) và Đại học Cornell (Hoa Kỳ) xây dựng lần đầu tiên vào năm 2007 và tới nay liên tục được hoàn thiện và công bố định kỳ hàng năm. Cốt lõi của Báo cáo là Bảng xếp hạng về đổi mới sáng tạo toàn cầu, với Bộ chỉ số khoảng 80 thành phần, đánh giá toàn diện về trình độ đổi mới sáng tạo của mỗi quốc gia về các lĩnh vực: Thể chế/tổ chức, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển kinh doanh, Đầu ra công nghệ và tri thức, Kết quả sáng tạo…được phân chia theo 7 trụ cột, với 5 trụ cột đầu tiên thuộc “nhóm tiểu chỉ số đổi mới sáng tạo đầu vào” và 2 trụ cột sau cùng thuộc “nhóm tiểu chỉ số đổi mới sáng tạo đầu ra”.

GII có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế, phản ánh đậm nét nhận thức và trình độ phát triển công nghệ của một quốc gia. Bộ chỉ số xếp hạng này hiện trở thành Bộ công cụ đánh giá tốt hơn, phong phú và xác đáng hơn so với các thước đo đổi mới sáng tạo truyền thống khác (như số lượng các bài báo nghiên cứu được công bố, số đăng ký bằng độc quyền sáng chế hay các mức chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển…).

Theo Báo cáo về Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2017 (GII-2017) công bố chiều 15-6, Việt Nam xếp hạng 47/127, vượt 12 bậc so với năm 2016 (đứng đầu trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp và thứ 9 trong khu vực gồm Đông Nam Á, Đông Á, và châu Đại Dương). Đây là thứ hạng cao nhất Việt Nam đạt được  trong 10 năm qua và ViỆT nam hiện được đánh giá có thế mạnh đồng đều trong 7 trụ cột: Đầu ra tri thức và công nghệ, chỉ số phức tạp/đa dạng của thị trường, chỉ số phức tạp/đa dạng kinh doanh, chỉ số đầu ra sáng tạo và chỉ số tăng trưởng đầu tư cho giáo dục….

Như vậy, trong 5 năm qua, vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng GII  đã tăng ấn tượng tới 29 bậc, từ vị trí 76 (năm 2013), lên 71 (năm 2014), lên 52 (năm 2015), 59 (năm 2016) và 47 (2017). Đây là bằng chứng khá tốt cho việc cải thiện phát triển theo chiều sâu của Việt Nam.

Năm 2016, Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2014 về xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc; tăng 9 bậc so với năm 2015 về xếp hạng môi trường cạnh tranh  của Ngân hàng Thế giới (WB) , nhưng bị giảm 7 bậc về chỉ số GII và  giảm 4 bậc (từ vị trí 56 xuống thứ 60) về  xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF).

Bởi vậy, khác với các năm trước, Nghị quyết 19-2017/NQ-CP ngày 6/2/2017 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh đã tích hợp yêu cầu 4 bộ chỉ số đánh giá xếp hạng toàn cầu về mức độ thuận lợi kinh doanh của WB; về năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF; về năng lực đổi mới sáng tạo và về Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc để xây dựng và thực hiện hệ chính sách tương ứng theo thông lệ quốc tế. Chính phủ đã đặt mục tiêu cụ thể về các chỉ số GII  phải đạt và đã giao Bộ KH&CN làm đầu mối hướng dẫn, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, sử dụng báo cáo hằng năm về GII để thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc cải thiện các chỉ số GII; Trong đó, xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị và tiến độ thực hiện đối với từng nhiệm vụ gắn với từng chỉ số được phân công, sớm cập nhật các số liệu lạc hậu, thu thập và bổ sung một số số liệu còn thiếu, qua đó góp phần có được một đánh giá toàn diện, sát thực hơn về năng lực của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam.

Đổi mới sáng tạo là quá trình mang tính lâu dài, là động lực và thước đo phản ánh quyết tâm, cũng như hiệu quả đổi mới của Nhà nước kiến tạo và cộng đồng doanh nghiệp, khoa học và công nghệ Việt Nam. Kết quả xếp hạng Việt Nam trong GII-2017 phản ánh kết quả triển khai Nghị quyết 19-2017/NQ-CP; đồng thời là  sự hội tụ và cộng hưởng những đột phá nhận thức và nỗ lực cả một quá trình quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo, tiềm lực và hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển mạnh từ chủ yếu theo bề rộng sang chủ yếu theo bề sâu trên cơ sở khuyến khích tự do, sáng tạo và coi khoa học công nghệ là động lực trọng tâm cho phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, bảo đảm quốc phòng an ninh và các nhu cầu phát triển của xã hội của Việt Nam; tiếp tục định hướng và tạo đà cho những cải cách và kết quả kỳ vọng tích cực hơn trong đổi mới toàn diện và chủ động hội  nhập quốc tế thời gian tới.

Khi được hỗ trợ tốt, cộng đồng doanh nghiệp sẽ kinh doanh liêm chính, bảo vệ tốt hơn vấn đề môi trường, chinh phục thị trường và kết nối, hỗ trợ nhau đem lại sự thịnh vượng và phát triển kinh tế chung cho Việt Nam..

Tóm lại, chúng ta đang từng bước thu hẹp sản xuất theo bề rộng và mới đi được những bước đầu tiên chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Quá trình này đòi hỏi cả nhiều thập kỷ và nhiều quyết tâm, nguồn lực to lớn hơn nữa!

Nhật Anh - [email protected]
Với sản phẩm của Kangaroo, người tiêu dùng có thể nhận biết qua các dấu hiệu nào?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Như chia sẻ ở trên, người tiêu dùng nên mua tại các đại lý chính hãng, siêu thị để đảm bảo được giá trị chất lượng hàng hóa. Các dấu hiệu nhận biết như tem chính hãng, tem điện tử, kiểm tra các dấu hiệu như logo dập nổi, tem vỡ, tem thiếc của lõi lọc. Với các sản phẩm của Kangaroo thì độ tinh xảo của các thiết kế, chi tiết sản xuất cũng khiến người tiêu dùng dễ dàng phân biệt hơn. 

Trần Thị Quyết - [email protected]
Mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam có nền KHCN nằm trong top dẫn đầu ASEAN, đến năm 2030, một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới. Theo ông Việt Nam cần phải làm gì để đạt mục tiêu này?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế
 TS Nguyễn Minh Phong trả lời trực tiếp các câu hỏi trong chương trình Giao lưu trực tuyến

Ngoài những giải pháp cụ thể để phát triển DN và hỗ trợ DN ứng dụng KHCN như đã biết, cần chú ý thường xuyên cập nhật những quy chuẩn và thực trạng tiêu chuẩn KHCN và chất lượng của các nước khu vực, cũng như thế giới để lấy đó làm mốc và mục tiêu phấn đấu cụ thể cho Việt Nam trong từng lĩnh vực và thời điểm cụ thể.

Chính phủ cần quan tâm nhiều hơn đến cập nhật và phân công cơ chế trách nhiệm xử lý, nhằm không ngừng cải thiện xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia do LHQ thực hiện và công bố hàng năm để có hướng phấn đấu cụ thể trong phát huy thành tựu, nhận diện và khắc phục tồn tại, hạn chế…

Xây dựng chuẩn giá trị quốc gia, hoàn thiện cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia, đột phá trong công tác cán bộ, nhất là chống lợi cihs nhóm và tham nhũng trong công tác cán bộ phải là định hướng ưu tiên quan trọng nhất để Việt Nam bứt phá và hội nhập thành công, cũng như vươn lên Top đầu ASEAN về KHCN như mục tiêu đặt ra.

Đặc biệt, Chính phủ cần quan tâm tạo lập những yếu tố quan trọng để cải thiện năng lực đổi mới quốc gia, nhất là nền tảng công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng dụng đội ngũ chuyên gia và công nhân lành nghề trong lĩnh vực khoa học công nghệ; xây dựng và vận hành tốt các trung tâm, vườn ươm, công viên và các phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, đại học khoa học công nghệ quốc gia. Ngoài ra, việc gia tăng nền tảng công nghệ thông tin và coi trọng đào tạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, phải trở thành trọng tâm của các ưu tiên trong thời gian tới, cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô, cơ quan quản lý nhà nước cũng như doanh nghiệp...

Lê Hải Yên - [email protected]
Pháp luật có quy định trách nhiệm của người kinh doanh phải có trách nhiệm gì trong bảo vệ thông tin của người tiêu dùng không?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:

a) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;

b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý;

c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;

d) Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;

đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Xin cho biết hiện nay mã vạch do Tổng cục cấp được DN gắn trên sản phẩm có truy xuất được nguồn gốc hay không? Có cách nào để người tiêu dùng phát hiện hàng giả thông qua mã vạch hay không?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Mã số mã vạch do Tổng cục cấp được DN gắn trên sản phẩm truy xuất được nguồn gốc chủ thương hiệu là ai, ở đâu, làm gì. Tuy nhiên không nói lên được hàng hóa được sản xuất ở đâu (thông tin này bắt buộc ghi trên nhãn hàng hóa) vì chủ thương hiệu có quyền thuê nhân công ở quốc gia khác gia công và gắn mã số mã vạch của mình lên hàng gia công đó.

Người tiêu dùng có thể phát hiện hàng giả và nhà sản xuất hoàn toàn có khả năng bảo vệ hàng chính hãng của mình thông qua mã số mã vạch GS1. Cụ thể: Khi kết hợp việc quét mã vạch cùng công nghệ thông tin kết nối vào Mạng GEPIR (Global Electronic Party Information Registry) đăng kí thông tin điện tử về doanh nghiệp và sản phẩm sử dụng MSMV trên toàn cầu hoặc mạng IPM (Interface Public Members) -  một công cụ trực tuyến của tổ chức hải quan thế giới WCO và của GS1 có khả năng sử dụng thiết bị di động để quét các loại mã vạch GS1 trên sản phẩm, cung cấp các nguồn thông tin đáng tin cậy về sản phẩm. Hơn nữa, việc quét mã vạch còn tạo thuận lợi cho việc kết nối tự động với mọi dịch vụ xác nhận liên kết với sản phẩm được kiểm soát. Mã số mã vạch GS1 là công cụ đắc lực giúp xác định nguồn gốc hàng hóa và phân định được hàng giả tiềm ẩn.

Quyền Trần - [email protected]
Giữa một thị trường máy lọc nước “trăm hoa đua nở” như hiện nay, việc lựa chọn máy lọc nước đảm bảo chất lượng không thực sự dễ dàng đối với NTD. Làm thế nào để không mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

3 - 4 năm trước Kangaroo phải đối mặt với sự tràn lan của hàng giả, hàng nhái với nhiều thủ pháp vô cùng tinh vi. Chúng tôi cũng đưa ra rất nhiều giải pháp phân biệt hàng giả hàng nhái như tem điện tử, các dấu hiệu đặc biệt trong sản xuất như dập nổi logo, tem thiếc, tem vỡ… giúp người tiêu dùng dễ dàng phân biệt hơn.

Nhưng sự tinh vi không chỉ ở việc làm hàng nhái, việc làm giả các sản phẩm như chuỗi phóng sự gần đây của VTV đã đưa, việc lợi dụng các thương hiệu nước ngoài gắn mác cho máy lọc nước đã khiến nhiều người tiêu dùng nhầm tưởng về chất lượng sản phẩm.

Tuy nhiên, giải pháp mà Kangaroo lựa chọn đó là liên tục phát triển công nghệ, tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm, giá trị công nghệ mới… đó chính là những biện pháp giúp cho Kangaroo giữ được các giá trị riêng của mình.

Nguyễn Thị Châu Loan - [email protected]
Giải pháp nào cho các DN vừa và nhỏ ứng dụng KHCN mà không trăn trở về vốn?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Giải bài toán hỗ trợ DNVVN ứng dụng KHCN mà không trăn trở về vốn là một bài toán kép không dễ giải của Việt Nam, không thể giải một lần và càng không thể khoán trắng cho một bên, mà đòi hỏi cần có sự tham gia của nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và người dân; trong đó liên kết giữa nhà khoa học và nhà đầu tư là nòng cốt.

Trước hết, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển quốc gia và mỗi địa phương,  ngành và chiến lược đầu tư của từng DN theo hướng mở, phù hợp với nhu cầu, triển vọng thị trường, phát huy lợi thế so sánh, kinh nghiệm và phù hợp với thực tiễn công nghệ; có chính sách ưu đãi phù hợp cho các hoạt động  ứng dụng  KHCN; chủ động xây dựng cho được và khép kín chuỗi liên kết trong sản xuất, bảo quản, chế biến và phân phối trong nước, cũng như tích cực tham gia hiệu quả vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu.

Đặc biệt, cần có đột phá trong cơ chế đầu tư và tín dụng hỗ trợ DN nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN với cơ chế vay thuận lợi, thông thoáng nhất; không chỉ cho một ngân hàng thương mại làm việc này, mà cho nhiều ngân hàng thương mại cùng cạnh tranh tham gia, nâng cao chất lượng tín dụng, chống tiêu cực, chi phí không chính thức; Tách bạch rõ ràng giữa tín dụng chính sách với tín dụng thương mại. Khi thực hiện nhiệm vụ chính sách các TCTD cũng phải được hưởng những ưu đãi của chính sách như các  đơn vị thụ hưởng, được hỗ trợ nguồn vốn cho vay, cấp bù lãi suất do thực hiện chính sách giảm lãi suất; cách tính các hệ số an toàn, chính sách thuế, cơ chế xử lý rủi ro cần linh hoạt hơn; không hình sự hóa các quan hệ tín dụng, xác định đến cùng trách nhiệm trả nợ của người vay, ngăn chặn sự lạm dung, rủi ro đạo đức và giảm tâm lý lo ngại của cán bộ tín dụng khi thực hiện cho vay khách hàng.

Ngoài ra, Chính phủ cần khuyến khích thành lập và vận hành hiệu quả các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp; coi trọng xây dựng các cơ chế, chính sách, lộ trình thực hiện các ưu đãi thuế, tín dụng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và cán bộ; phát triển các trung tâm và các dịch vụ hỗ trợ chuyển giao và quản lý KHCN, xây dựng, phát triển, mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng mẫu mã, bao bì, xây dựng thương hiệu, áp dụng thương mại điện tử cho các DN đầu tư và ứng dụng KHCN, nhất là cho vay và đầu tư cho các DN tham gia vào chuỗi liên kết; xây dựng và duy trì hàng rào kỹ thuật đúng quy định và các cam kết hội nhập để bảo vệ doanh  nghiệp trong nước; đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với sản phẩm; Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc kiểm soát quy chuẩn chất lượng các sản phẩm; xử lý nghiêm minh các hành vi gian lận, vi phạm pháp luật; coi trọng dự báo và cung cấp thông tin thường xuyên về cung - cầu, giá cả thị trường trong nước và thế giới; hỗ trợ tuyên truyền, tiếp thị, quảng bá để tạo thương hiệu và thúc đẩy tiêu thụ các sản ứng dụng KHCN…

Dương Hoài Vũ - [email protected]
Những hành vi cụ thể vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì bị xử lý như thế nào?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Theo Điều 11 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010:

1. Cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

2. Tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

3. Cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

4. Chính phủ quy định chi tiết việc xử phạt vi phạm hành chính trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thủy Hoàng - [email protected]
Xin chào lãnh đạo Tổng cục, theo tôi được biết thì có rất là nhiều sản phẩm của các tập đoàn nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam vậy chất lượng những sản phẩm đó được những cơ quan nào đánh giá. Người tiêu dùng kiểm tra chất lượng bằng cách như thế nào?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

1. Theo quy định tại Luật Chất lượng SPHH thì hàng hóa được phân thành 02 nhóm:

- Sản phẩm, hàng hóa nhóm 1 (sản phẩm, hàng hóa không có khả năng gây mất an toàn) được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng).

- Sản phẩm, hàng hóa nhóm 2, việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa này được căn cứ trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng.

Do đó, nếu là hàng hóa nhóm 2 thì doanh nghiệp phải thực hiện biện pháp quản lý theo quy định tại QCVN (đánh giá sự phù hợp, đăng ký kiểm tra chất lượng đối với lô hàng nhập khẩu tại cơ quan kiểm tra nhà nước).

Để giảm thủ tục hành chính, thời gian thông quan và thời gian đánh giá sự phù hợp, doanh nghiệp nhập khẩu có thể lựa chọn hình thức đánh giá tại nguồn (tại cơ sở SX nước ngoài) và khí đó giấy chứng nhận có giá trị 03 năm và hàng hóa nhóm 2 nhập khẩu sẽ không phải thực hiện lấy mẫu thử nghiệm, đánh giá.

Bên cạnh đó, đối với hàng hóa nhóm 2 thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ KHCN, Tổng cục TĐC cũng đã hướng dẫn các tổ chức ĐGSPH thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp.

2. Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa quy định rõ nhà sản xuất phải có nghĩa vụ thể hiện các thông tin về chất lượng trên bao bì và trong tài liệu kèm theo hàng hóa. Để mua được những sản phẩm có chất lượng, đảm bảo an toàn sức khỏecho người tiêu dùng, bí quyết của những người tiêu dùng thông thái là tìm xem mặt hàng đó có được nhà sản xuất công bố chỉ tiêu chất lượng cụ thể hay không, chỉ tiêu chất lượng đó cụ thể như thế nào, do tổ chức nào chứng nhận.

Ngoài ra, một số cách có thể giúp người tiêu dùng có thể mua được hàng hóa cóchất lượng:

- Lựa chọn địa chỉ mua hàng uy tín, được nhiều người tin cậy.

- Về giá cả hàng hóa: Giá tiền không phải yếu tố quyết định nhưng sản phẩm chính hãng thường không có giá quá rẻ. Nếu rẻ quá thì bạn nên cân nhắc.

- Chọn sản phẩm nguyên hộp: nên mua các sản phẩm vẫn còn nguyên niêm phong (seal) và giấy bóng kính.

- Để ý đến các chi tiết trên hộp: Hàng chuẩn thường có vỏ hộp được in cẩn thận, rõ ràng, hài hoà về mặt thẩm mỹ và cực kỳ ít lỗi sai.

- Cảm quan cá nhân trên sản phẩm: Điều này người tiêu dùng cần có một chút kinh nghiệm để nhìn bằng mắt thường nhưnhãn hàng hóa, dấu hợp quy. Ngoài ra, sản phẩm chính hãng thường ít có lỗi vặt (ví dụ chỉ thừa, may lỗi... đối với những mặt hàng như giày dép, quần áo; nước hoa, thứ cần nhận biết chính là mùi hương, thời gian bay mùi...).

Nguyễn Thị Trà My - [email protected]
Việc ứng dụng KHCN để tăng chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa theo chuỗi giá trị đang được các DN thực hiện, DN Việt Nam cần phải làm gì để thúc đẩy hoạt động này nhanh hơn?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Trước hết, DN cần quan tâm lựa chọn những sản phẩm, lĩnh vực, dịch vụ chủ yếu có lợi thế so sánh và triển vọng thị trường để tập trung các nguồn lực đầu tư như một định hướng ưu tiên lâu dài; Đồng thời, DN cần xác định được yêu cầu và cấp độ KHCN mà mình cần ứng dụng, nhất là công nghệ cho phép DN tham gia sâu vào chuỗi gia trị và đảm bảo khép kín chuỗi cung ứng; Tiếp đó, xây dựng các phương án tài chính, chuẩn bị nguồn nhân lực và các cơ chế đầu tư, quản lý phù hợp để triển khai...

Thực tế và yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 đặt ra và đòi hỏi các DN Việt Nam cần nhiều hơn nữa những đột phá trong cách nghĩ, cách làm và các chính sách cần thiết, nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNC, tăng liên kết theo chuỗi giá trị khép kín từ khâu sản xuất đến thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong các khâu của quá trình sản xuất chủ yếu theo chiều sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh theo hướng hiện đại, văn minh và phát triển bền vững; ưu tiên ứng dụng công nghệ mới, quy trình sản xuất tiên tiến, cơ giới hóa, tự động hóa, công nghệ thông tin, tạo ra các sản phẩm có chất lượng, năng suất và giá trị gia tăng cao, thân thiện môi trường, đáp ứng được những quy chuẩn ngày càng cao của người tiêu dùng trên thị trường cả trong nước và nước ngoài, cả trước mắt và lâu dài; đồng thời, góp phần bảo đảm an sinh và công bằng xã hội, xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, đa chức năng, có khả năng cạnh tranh quốc tế; từng bước đưa nước ta đứng trong nhóm các quốc gia nông nghiệp phát triển hàng đầu thế giới và trở thành trung tâm cung ứng sản phẩm công nghệ cao, có vị thế quan trọng trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Chế độ "hậu mãi" vừa là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sản phẩm và cộng đồng, vừa là yếu tố để doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh. Kangaroo thực hiện việc này như thế nào?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo
Ông Lại Trung Tùng nhận được nhiều câu hỏi của độc giả gửi về chương trình 

Hiện tại Kangaroo đã thiết lập được hơn 450 trạm bảo hành ủy quyền trên toàn quốc nhằm đảm bảo tối đa dịch vụ hậu mãi tại các địa bàn. Hướng tới bảo hành 24 giờ với đội ngũ call center phục vụ 24/24. Sắp tới cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ chăm sóc khách hàng có thể đảm bảo dịch vụ hậu mãi của Kangaroo sẽ làm hài lòng tối đa các nhu cầu của khách hàng trên toàn quốc. 

Phạm Minh Đức - [email protected]
Tôi mua xúc xích có dị vật, tôi phải tiến hành các bước như thế nào để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng là tôi và các người khác? Người tiêu dùng có buộc phải chứng minh sản phẩm bị lỗi hay không?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Việc đầu tiên bạn cần làm là xác định người bán/người sản xuất của sản phẩm có dị vật và khiếu nại trực tiếp với họ. Nếu không được giải quyết thỏa đáng bạn có thể sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác như hòa giải, đưa vụ việc ra trọng tài hoặc tòa án.

Bạn cũng có thể phản ánh với các bộ phận tư vấn khiếu nại của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, các Hội bảo vệ người tiêu dùng địa phương và Phòng bảo vệ người tiêu dùng của Cục quản lý cạnh tranh.

NTD không buộc phải chứng minh sản phẩm bị hư hỏng hay có dị vật là lỗi của người bán/người sản xuất nhưng phải chứng minh đó đúng là sản phẩm mà họ đã mua của những người này. 

Bình Lê - [email protected]
Việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam hiện nay đã đáp ứng được hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và yêu cầu quản lý KT-XH của đất nước hay chưa? Tiêu chuẩn giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thể hiện như thế nào?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Hiện nay Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) có trên 9.500 TCVN, trong đó 47%đạt tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) với hơn 680 QCVN về cơ bản các TCVN và QCVN đã đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên để  phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội hàng năm Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục công bố khoảng 500 TCVN trên cơ sở soát xét, sửa đổi bổ sung và xây dựng mới các TCVN cho các sản phẩm và các yêu cầu quản lý, sản xuất kinh doanh, dịch vụ, môi trường phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội.

Việc xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) cũng được xây dựng bổ sung tùy theo yêu cầu quản lý của các Bộ, ngành sẽ xây dựng các QCVN cho các sản phẩm hàng hóa của Bộ, ngành được phân công quản lý. Số lượng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cho các sản phẩm hàng hóa luôn được cập nhật và bổ sung mới lên tiêu chuẩn và quy chuẩn luôn phải xây dựng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Trần Xuân Quang - [email protected]
Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp về nâng cao năng lực canh tranh. Theo ông các chính sách này đã phát huy tốt mục tiêu mà nó đặt ra hay chưa?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Việt Nam đứng là đã có nhiều chính sách và nỗ lực hỗ trợ DN và bước đầu có những kết quả, mục tiêu đáng khích lệ, nhưng cũng còn nhiều việc phải làm.

Đơn cử chỉ một năm qua, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã xử lý được khoảng 80% trong số hơn 1100 kiến nghị từ cộng đồng doanh nghiệp; ban hành 50 nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh, với  4.527 trong số 4.723 thủ tục hành chính (gần 96%) đã được đơn giản hóa; chuẩn hoá và cắt giảm từ 385 thủ tục xuống còn 300 thủ tục hành chính thuế; mở rộng khai và nộp thuế điện tử trên 63/63 tỉnh, thành phố TW, khiến 75% người nộp thuế được hỏi hài lòng với kết quả cải cách của cơ quan thuế trong thời gian qua. Đồng thời, thực hiện đăng ký doanh nghiệp trực tuyến với hơn 100 quy trình cấp độ 03 trở lên (95 quy trình được triển khai ở cấp độ 04), công khai hóa toàn bộ quy trình đăng ký doanh nghiệp và tình trạng hồ sơ doanh nghiệp trên Hệ thống Thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, giảm thời gian quy định đăng ký doanh nghiệp thực tế trên cả nước chỉ còn 2,9 ngày so với yêu cầu còn 03 ngày theo Luật Doanh nghiệp; Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên đạt gần 86%, tỷ lệ hồ sơ trả kết quả đúng hẹn đạt gần 90%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử của cả nước trong năm 2016 đạt 14% (riêng quý IV/2016 đạt trên 35%) và dự kiến 2017 sẽ đạt 30%...

Việt Nam tăng tới 9 bậc, xếp thứ 82/190 nước trong Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2016 của WB và tăng 14 bậc, lên vị trí 73/136 nền kinh tế được đánh giá trong bảng xếp hạng "Thúc đẩy thương mại xuyên biên giới 2016" của  Diễn đàn Kinh tế Thế giới, với cải thiện đáng trong khâu quản lý biên giới, hiệu quả hải quan và thời gian thủ tục cho hàng hóa xuất, nhập khẩu, cơ sở hạ tầng vận tải, sự tiếp cận của hàng hóa nước ngoài đối với thị trường nội địa và khả năng xâm nhập các thị trường nước ngoài …

Những cải thiện môi trường đầu tư đã trực tiếp và gián tiếp góp phần cải thiện vốn đầu tư xã hội được thể hiện ở sự gia tăng các dòng vốn đầu tư từ mở rộng dư nợ tín dụng ngân hàng, gia tăng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, từ dòng vốn bổ sung đầu tư mở rộng và tăng vốn thực hiện cả FDI và giải ngân vốn đầu tư từ NSNN. Năm 2016 lần đầu tiên Việt Nam có trên 110.100 doanh nghiệp (DN) đăng ký thành lập mới và trên 90% số DN đó đã đi vào hoạt động, đã kê khai thuế và nộp thuế trên thực tế; Hơn nữa, 75% số DN Việt Nam được khảo sát trong quý I/2017 khẳng định tình hình sản xuất kinh doanh  của mình quý I năm nay ổn định hoặc tốt hơn quý IV/2016 và 90% số DN tin rằng quý II/2017 sẽ có xu hướng ổn định hoặc tốt lên. 65% DN hoạt động có lãi, mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Năm 2016, tổng vốn đăng ký của các dự án FDI cấp mới, bổ sung vốn và góp vốn, mua cổ phần tăng 7,1% so với năm trước và FDI thực hiện ước  tăng 9%, cao nhất từ trước đến nay. Riêng 4 tháng đầu năm 2017, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tiếp tục tăng 14% về lượng và tăng 48,9% về số vốn đăng ký. Tổng vốn đăng ký của các dự án FDI cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ tăng 40,5%, vốn thực hiện tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2016. Theo Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro), trên 66% doanh nghiệp được khảo sát cho biết có xu hướng “mở rộng hoạt động kinh doanh” tại Việt Nam.

Ngoài ra, theo NHNN, mức tăng trưởng tín dụng quý 1/2017 đạt 2,81%, mạnh nhất trong vòng 6 năm trở lại đây, cũng  cho thấy có sự cải thiện tích cực khả năng hấp thụ vốn của DN và thu nhập của các ngân hàng.

Khi chính phủ thực tâm đồng hành cùng doanh nghiệp, những thành công cả về cải cách thể chế, lẫn những thành tựu trên thực tế phát triển kinh tế, thu hút đầu tư xã hội sẽ là thực chất và ngày càng đáng khích lệ. Những kết quả đó hội tụ và tỏa sáng thông điệp về nhận thức mới, tôn trọng quyền của người dân và doanh nghiệp; tăng cường sự đồng thuận xã hội, quyết tâm chính trị cao và sự chỉ đạo sát sao, hành động quyết liệt, tinh thần cầu thị và kiên trì định hướng đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, tiền định và là điều kiện bảo đảm cho một triển vọng phát triển kinh tế mới và đón vận hội mới tích cực hơn…

Tuy nhiên, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là ở những công đoạn và những cán bộ tiếp xúc trực tiếp với DN, nổi bật là khắc phục các chi phí bôi trơn, tình trạng nhũng nhiễu hoặc làm méo mó các quy định, môi trường cạnh tranh lành mạnh: Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương-Bộ KH&ĐT đối với 2.600 DN vừa và nhỏ, ngoài quốc doanh hoat động trong lĩnh vực chế biến, sản xuất tại 10 địa phương năm 2016, có hơn 40% DN vừa và nhỏ phải chấp nhận những khoản chi không chính thức cho các cơ quan quản lý nhà nước (có giảm so với 64% năm 2015).

Báo cáo CPI-2016 của VCCI đã cho thấy có hai nghịch lý đáng lo ngại sau:

Nghịch lý thứ nhất là ngược so với tổng thể môi trường đầu tư được cải thiện là tình trạng chậm, thậm chí nặng nề hơn về các chi phí không chính thức ở khu vực DN trong nước.

Theo dó, trung bình có khoảng 66% DN cho biết thường xuyên chi trả các khoản không chính thức (tức cao hơn 12 - 15 điểm phần trăm so với giai đoạn 2008 – 2013) và chúng chiếm tới hơn 10% tổng doanh thu của họ (cao hơn hẳn mức 6-8% giai đoạn 5 năm kể từ 2014 trở về trước).

Điểm nghịch lý thứ hai là hiện tượng DN tự nguyện “tra dầu bôi trơn” lớn hơn hẳn so DN bị đòi hỏi phải chi bôi trơn.

Theo VCCI, trong số 45% DN đã đưa quà và các chi phí không chính thức trong đợt thanh, kiểm tra trong năm 2016, chỉ 8% DN là bị cán bộ thanh, kiểm tra đòi hỏi. Tỉ lệ này nhỏ hơn 5 lần so với tỉ lệ DN chủ động đưa biếu (44%). Đặc biệt, 59% các DN tin rằng hành vi chủ động đưa quà cáp dù không bị đòi hỏi này là phổ biến, trở thành “luật bất thành văn”. Hơn nữa, gần 80% DN trả lời việc đưa quà là nhằm tạo lập mối quan hệ, như một “hợp đồng bảo hiểm” cho những rắc rối và được tạo thuận lợi giải quyết các vụ việc nảy sinh trong tương lai.  Sự phổ biến của chi phí bôi trơn đã bình thường tới mức hai bên mặc định cần có và khi không có thì bên cảm thấy thiếu và bên chưa an tâm. Điều này có thể thấy rõ qua báo cáo PCI 2016, khi mà có tới 88% DN ít nhiều đều gặp bất lợi khi tham gia đấu thầu các hợp đồng với cơ quan nhà nước do không “bôi trơn”…

DN là đơn vị kinh doanh vì lợi nhuận. Một DN không bao giờ “chi bôi trơn” khi không bị đòi hỏi hay không mưu cầu vì lợi ích của mình. Đó là lẽ thông thường của đời sống kinh tế thị trường. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, hiện tượng DN dù làm đúng, nhưng vẫn phải có khoản phí bôi trơn do sợ bị bắt bẻ, làm khó trong các thủ tục quyết toán, thanh tra, kiểm tra thuế…chứng tỏ chất lượng và kỷ luật công vụ của công chức thuế Việt Nam có nhiều điều đáng quan ngại. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân chính của việc các DN chấp nhận những khoản chi phí không chính thức là do tâm lý muốn nhanh được việc và do thái độ làm việc của một số cán bộ công chức cố tình gây nhũng nhiễu, làm khó DN.

Khi xu hướng coi việc đưa (bị động bắt buộc hoặc chủ động không bắt buộc) và liên tục gia tăng mức “chi phí không chính thức” để “bôi trơn thủ tục” được “mặc định” như một phần tất yếu của cuộc sống doanh nghiệp và các quan hệ xã hội thì độ “ô nhiễm môi trường” đầu tư và tâm lý xã hội ngày càng đậm đặc và tiêu cực. Bởi chúng không chỉ làm cản trở cạnh tranh lành mạnh, tăng chi phí sản xuất và giảm bớt lợi nhuận của DN, mà còn tạo kẽ hở cho thất thu NSNN vì áp thuế sai hoặc bỏ qua những sai phạm của DN, gây hại cho nhà nước, thị trường và xã hội; Hơn nữa, chúng còn tiếp tay cho các hành vi tiêu cực và vi phạm pháp luật khác, cản trở việc lựa chọn được nhà cung cấp dịch vụ tốt nhất, dẫn đến chi phí cao hơn và chất lượng kém hơn trong sản xuất-kinh doanh, đầu tư công và đầu tư xã hội. 

Tăng chi phí bôi trơn không chỉ làm tăng gánh nặng chi phí và thể chế của DN, gây thiệt hại chung cho xã hội, mà còn trở thành thước đo mức độ nghiêm trọng của tham nhũng, cũng như là bằng chứng cho thấy sự bất lực, kém năng lực, hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước nói chung, công cuộc chống tham nhũng nói riêng. Mức độ các chi phí không chính thức tỷ lệ thuận với năng lực gây nhũng nhiễu, làm khó doanh nghiệp của một số cán bộ, và cả với sự chủ động mặc cả của chính doanh nghiệp để “tiết kiệm” một phần nghĩa vụ nộp thuế hoặc thời gian xếp hàng làm thủ tục, thậm chí để dễ “chen ngang”, vượt lên chiếm lợi thế với đối thủ của mình.

Những chi phí không chính thức chỉ có thể bị loại bỏ bằng những biện pháp chính thức đồng bộ và nhất quán…Hơn nữa, chi phí không chính thức còn là biểu hiện chính thức của tham nhũng.

Thực tiễn thế giới cho thấy, quyền lực nếu không được kiểm soát chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực và là nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng.  

Vì vậy, trong thời gian tới, xóa bỏ sự mặc định sống chung với tham nhũng nói chung và chấp nhận các chi phí không chính thức nói riêng, các cơ quan chức năng cần cụ thể hóa quy định về kiểm soát quyền lực đã được hiến định…Chính phủ, các bộ, ngành địa phương cần tiếp tục sửa đổi thể chế chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho DN và đáp ứng thông lệ quốc tế; tổng kết, đánh giá thực hiện Luật Quản lý thuế, từ đó nghiên cứu đề xuất sửa đổi theo hướng bảo đảm thống nhất, đồng bộ với mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý thuế theo hướng hiện đại, dựa trên quản lý rủi ro; tiếp tục đơn giản hoá TTHC thuế, tăng cường công khai minh bạch, dụng công nghệ thông tin đồng bộ và toàn diện trong giải quyết TTHC thuế và kết nối với hệ thống thông tin của các bộ, ngành; Đặc biệt, các cơ quan chức năng và Chính phủ cần có biện pháp quyết liệt và hiệu quả hơn nhằm rà soát lại các lĩnh vực thuộc quyền quản lý của mình để cương quyết loại bỏ tất cả các khoản phí ngầm, các khoản thu không đúng chế độ để tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp ổn định và phát triển, trước mắt tập trung vào những khâu, lĩnh vực có nguy cơ cao như kiểm tra thuế, thanh tra thuế và kê khai, quyết toán thuế, hoàn thuế... Đồng thời, việc giảm thanh kiểm tra cần sự phối hợp vào cuộc chung của các ngành, chứ không chỉ của riêng ngành thuế… 

Hưng Nguyễn - [email protected]
Chào bà Mỹ Loan, bà có ý kiến như thế nào về chất lượng sản phẩm trong ngành bán hàng đa cấp còn khiến người tiêu dùng rất băn khoăn không biết được chất lượng của sản phẩm là thật hay không khi mà có nhiều người tham gia bán hàng nói chưa đúng hoặc chưa đủ về nó?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam
 Bà Đinh Thị Mỹ Loan trong chương trình giao lưu trực tuyến

Theo tôi, NTD cần cẩn trọng và kiểm tra chặt chẽ về chất lượng sản phẩm được bán qua hệ thống đa cấp. Các thông tin chi tiết cần tìm hiểu bạn có thể tìm hiểu qua các tài liệu gốc của DN bán hàng đa cấp và rất nên kiểm tra chéo thông qua việc xin tư vấn của Cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương.

Toại Nguyễn - [email protected]
Kangaroo có rất nhiều mặt hàng, vấn đề giám sát kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm được DN thực hiện như thế nào ?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Ngoài đội ngũ chuyên gia nghiên cứu đánh giá vật liệu cũng như đánh giá chất lượng thì tất cả các khâu trong quá trình sản xuất đều được giám sát chặt chẽ bởi đội ngũ QC chuyên ngành.

Việc này yêu cầu sự cam kết tham gia từ các cấp lãnh đạo cũng như đội ngũ chuyên môn để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Các tiêu chuẩn này cũng được xem xét đánh giá hàng năm nhằm nâng cao hơn chất lượng sản phẩm. 

Cường Nguyễn - [email protected]
Hiện nay, việc áp dụng công nghệ, các hệ thống quản lý chất lượng, công cụ quản lý tiên tiến giúp cho DN nâng cao năng lực quản trị, điều hành đang được đẩy mạnh. Theo ông, như vậy đã đủ để cạnh tranh với DN nước ngoài hay chưa?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Việc đẩy mạnh hỗ trợ áp dụng công nghệ, các hệ thống quản lý chất lượng, công cụ quản lý tiên tiến là nền tảng quản trọng giúp cho DN nâng cao năng lực quản trị, đảm bảo chất lượng chất lượng sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế cũng như yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời sản xuất kinh danh có hiệu quả, giảm lãng phí và cải tiến liên tục.

Đây là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể tồn tại và cạnh tranh ngay chính tại thị trường trong nước và tiếp đó là trên thị trường khu vực và quốc tế.

Tuy nhiên để cạnh tranh với DN nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cần được hỗ trợ toàn diện hơn từ các cấp, ngành về các vấn đề khác như được tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, hỗ trợ tiếp cận về vốn, thông tin thị trường, phát triển thương hiệu, tham gia vào các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất, đào tạo nhân lực..

Doãn Trung - [email protected]
Dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, xin ông cho biết mối liên hệ giữa việc tăng sức cạnh tranh của DN gắn với quyền lợi của người tiêu dùng?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Sức cạnh tranh của DN không phải là mục đích tự thân và lợi ích người tiêu dùng cũng không phải là mục tiêu cao nhất trong hoạt động kinh doanh của DN…

Tuy nhiên, việc tôn trọng và bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng lại là bảo đảm cho lòng tin của người tiêu dùng, của thị trường vào DN và do đó bảo đảm năng lực cạnh tranh, sự tồn tại và phát triển của DN.

Một DN có năng lực cạnh tranh cao và thành công luôn phải biết bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; coi bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là hợp phần quyền lợi của DN và văn hóa của DN.

Đặc biệt, một DN có sức cạnh tranh vượt trội luôn biết tự chủ động nắm bắt nhu cầu và làm tất cả để đáp ứng được nhu cầu, vì quyền lợi của người tiêu dùng. Chỉ khi đó người tiêu dùng và thị trường sẽ thưởng cho DN bằng việc tiêu thụ ổn định và nhanh những hàng hóa, dịch vụ mà DN cung cấp.

Đến lượt mình, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, người tiêu dùng cần và có thể phải trở thành người tiêu dùng thông thái: Họ không chỉ biết mình cần những mặt hàng, dịch vụ với chất lượng ra sao, mà còn cần biết nó sẽ được mua ở đâu, với giá cả nào; Hơn nữa, người tiêu dùng cần sử dụng tốt quyền từ chối đối với những hàng hóa, dịch vụ chất lượng thấp để bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời tạo sức ép thị trường lên những DN làm ăn gian dối.

Và trong toàn bộ mối quan hệ của doanh nghiệp với người tiêu dùng, không thể thiếu được bàn tay và vai trò của quản lý nhà nước trong việc thiết lâp môi trường cạnh tranh lành mạnh và có hiệu lực pháp lý cao để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, cũng như của doanh nghiệp.

Cuối cùng, sự phát triển của hệ thống thông tin thị trường minh bạch và đầy đủ, cập nhật, chính xác, nhất là thông tin về chất lượng và uy tín doanh nghiệp, cũng như thông tin khách hàng đã, đang và sẽ là cấu thành cần thiết tạo lập và duy trì mối quan hệ lành mạnh giữa DN với người tiêu dùng.

Lê Bình - [email protected]
Một số doanh nghiệp chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng trong việc xử lý khiếu nại của người tiêu dùng nên có những biểu hiện coi nhẹ quyền lợi khách hàng của họ. Theo bà DN cần phải làm gì khi bị khiếu nại về chất lượng sản phẩm?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Khi bị khiếu nại chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải thương lượng và giải quyết khiếu nại với NTD trong thời hạn 7 ngày (Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu)

DN cần kiểm tra sản phẩm bị khiếu nại và giải quyết trong thời hạn nói trên.

Minh Vương - [email protected]
Kangaroo đã đầu tư như thế nào cho phát triển công nghệ và người tiêu dùng được hưởng lợi gì từ việc này?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Kangaroo đã thành lập 2 trung tâm nghiên cứu và ứng dụng thuộc viện nghiên cứu và ứng dụng Kangaroo. Tại đây có sự đầu quân và hợp tác của các kỹ sư, tiến sỹ trong và ngoài nước, có sự cộng tác nghiên cứu của các chuyên gia thuộc viện hàn lâm khoa học Việt Nam, cộng tác cùng các trung tâm nghiên cứu trên cả nước.

Các thiết bị cũng được trang bị mới, hiện đại và có những thiết bị chuyên biệt về nước có thể nói là duy nhất tại Việt Nam. Việc đầu tư này không chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu của Kangaroo, chúng tôi hướng tới sẽ trở thành trung tâm kiểm định độc lập tại Việt Nam giúp cho người tiêu dùng có thể dễ dàng kiểm định chất lượng hơn.

Mai Văn Đại - [email protected]
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, theo ông cần nhấn mạnh vào các giải pháp nào?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán,... Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao.

Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần tập trung vào các giải pháp sau:

1. Sắp xếp lại các doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế

Phải tích cực liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp nước ngoài nhằm hội tụ được các lợi thế mà từng doanh nghiệp đã tích lũy được theo những con đường khác nhau.

2. Xây dựng chiến lược cạnh tranh trên cơ sở lợi thế cạnh tranh xét ở trên giác độ ngoại thương

Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai cách sau:

- Đẩy mạnh chuyên môn hóa sản phẩm mà các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thế mạnh.

- Liên doanh, liên kết nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh.

3.Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền

Các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực cần tăng cường các hoạt động nghiên cứu, dự báo và phổ biến, tuyên truyền kịp thời, công khai các thông tin kinh tế đến các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp làm cơ sở để doanh nghiệpcó thể nâng cao chất lượng xây dựng và điều hành chiến lược đầu tư, kinh doanh của mình.

Doanh nghiệp cần chủ động trong việc điều chỉnh chiến lược và kế hoạch kinh doanh, đưa ra những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho chính mình như rà soát lại và điều chỉnh đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm, phát huy tối đa công suất, tiết kiệm chi phí, đổi mới thiết bị, tăng năng suất, áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến, đa dạng hóa các kênh huy động vốn, đa dạng thị trường xuất khẩu, sử dụng các công cụ chống rủi ro, thương lượng với đối tác để điều chỉnh tăng giá bán đối với các hợp đồng đã ký và hợp đồng mới, tìm nguồn cung cấp mới, nguyên liệu thay thế rẻ hơn, chấp nhận giảm lợi nhuận để giữ chân khách hàng...

Hiện nay, Quyết định số 712/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”là một trong những Chương trình triển khai hỗ trợ có hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt Nam về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, xây dựng, áp dụng các hệ thống, công cụ quản lý tiên tiến trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Minh Anh Lê - [email protected]
Có ý kiến cho rằng, mối liên hệ giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng vẫn chưa tạo sự gắn kết và có tiếng nói chung, theo bà lý do ở đây là gì?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Theo ý kiến của cá nhân tôi, lý do có thể là chúng ta thiếu lòng tin. Người tiêu dùng (NTD) không tin tưởng ở các nhà sản xuất hoặc nhà bán lẻ và ngược lại.

Chúng ta cần các thông tin đầy đủ và minh bạch về hàng hóa và dịch vụ cũng như quảng bá về hình ảnh của các doanh nghiệp có uy tín. Đồng thời NTD cũng cần được cung cấp các thông tin cập nhật về xu hướng và kiến thức tiêu dùng.. và khuyến khích các ý kiến phản hồi, góp ý của NTD cho doanh nghiệp, không chỉ về sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có vấn đề mà cả về các góp ý, đề xuất ý tưởng cho hàng hóa, dịch vụ mới hoặc cải tiến..

Mai Chung - [email protected]
Công nghệ được xem là thế mạnh của DN, với Kangaroo, công nghệ được ứng dụng vào các sản phẩm như thế nào? Vai trò của công nghệ có tác động như thế nào đối với sức cạnh tranh của DN?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Với định hướng chăm sóc sức khỏe cộng đồng từ chính các sản phẩm của mình nên việc đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng được xác định là sống còn của Kangaroo. Tôi có thể khẳng định, nếu không phải là Kangaroo thì sẽ không có máy lọc nước Kangaroo Hydrogen, không có khái niệm vật liệu khangs khuẩn, thiết bị vệ sinh kháng khuẩn, tủ đông kháng khuẩn… Đó hoàn toàn là những công nghệ mới được đầu tư nghiên cứu bài bản bởi các chuyên gia, kỹ sư, tiến sỹ trong và ngoài nước của Viện nghiên cứu và ứng dụng Kangaroo.

Với 2 viện nghiên cứu và ứng dụng tại Việt Nam, Kangaroo đã nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng thành công máy lọc nước Hydrogen đầu tiên và duy nhất tới thời điểm hiện tại tại Việt Nam. Đó vừa là thành tựu của Kangaroo nói riêng, vừa đóng góp vào nên khoa học nước nhà nói chung, vừa giúp cho người tiêu dùng Việt Nam cơ hội tiếp cận với các sản phẩm công nghệ cao của thế giới. Đó chính là những giá trị mà kangaroo mong muốn đóng góp cho xã hội khi đầu tư vào công nghệ.

 Quang cảnh chương trình giao lưu trực tuyến "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với quyền lợi người tiêu dùng"
Nguyễn Văn Hòa - [email protected]
Xin cho biết 3 luật chuyên ngành về Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng có tác động như thế nào đối với bảo vệ quyền lợi NTD?
Ông Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Đối với Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn:

Điều 16 và Điều 17đã thể hiện quyền lợi của người tiêu dùng được tham gia vào quá trình xây dựng Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN) qua việc tham gia của người tiêu dùng vào các Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia để xây dựng TCVN đối với các dự thảo TCVN do các Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc tổ chức xây dựng và đối với dự thảo do các tổ chức biên soạn người tiêu dùng được tham gia  vào quá trình xây dựng thông qua việc góp ý các dự thảo TCVN.

Điều 62 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH11 và Điều 23 của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa số 05/2007/QH12 đã qui định: các tổ chức cá nhân, sản xuất kinh doanh phải công bố tiêu chuẩn áp dụng cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, môi trường và việc công bố phù hợp tiêu chuẩn thông qua kết quả chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn do tổ chức chứng nhận sự phù hợp hoặc kết quả tự đánh giá sự phù hợp của mình. Người tiêu dùng có thể nhận biết được sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn trên các sản phẩm hàng hóa, bao gói của sản phẩm.

Đối với Luật Đo lường:

Điều 39 và Điều 40 Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng đóng gói sẵn phải thông tin trung thực về lượng của hàng đóng gói sẵn và thông báo với khách hàng, người tiêu dùng điều kiện phải thực hiện khi vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hàng đóng gói sẵn; Bảo đảm lượng của hàng đóng gói sẵn đáp ứng yêu cầu kỹ thuật đo lường theo quy định; Phải thể hiện dấu định lượng trên nhãn hàng hóa của hàng đóng gói sẵn theo quy định.

Người tiêu dùng được cung cấp thông tin trung thực về lượng hàng hóa, phương tiện đo, chuẩn đo lường đã mua và yêu cầu người bán hàng đáp ứng điều kiện quy định về kiểm tra phương tiện đo, thực hiện phép đo, lượng hàng hóa đã mua; Yêu cầu tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trợ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện hoạt động đo lường của tổ chức, cá nhân xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

Đối với Luật Chất lượng SPHH:

Theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng theo nguyên tắc hậu kiểm và xã hội hóa. Hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa nói chung là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh. Các yếu tố chất lượng không liên quan đến an toàn được điều chỉnh theo cơ chế thị trường, Nhà nước không can thiệp mà chỉ tạo ra sân chơi bình đẳng, công bằng. Thông qua việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy định tại Luật Chất lượng SPHH, người tiêu dùng được:

a) Bảo vệ quyền lợi hợp pháp khi được người bán, người sản xuất, nhập khẩu cung cấp hàng hóa không đảm bảo chất lượng như một số vụ vi phạm có phạm vi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng như vụ sữa melamine trẻ em; vụ gian lận trong đo lường và kinh doanh sản phẩm xăng dầu; vụ mũ bảo hiểm không đảm bảo an toàn chất lượng...

b) Bồi thường thiệt hại do hàng hóa không bảo đảm chất lượng.

c) Lựa chọn sản phẩm, hàng hóa có chất lượng, bảo đảm an toàn cho mình trong quá trình vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hoá. Trước đây khi một số hàng ngoại nhập ồ ạt đổ vào Việt Nam với giá rẻ, phổ biến là các mặt hàng tiêu dùng, từ các đồ điện tử, xe máy, xe đạp, điện thoại di động, cho đến các sản phẩm gia dụng, quần áo, thực phẩm, trái cây... người tiêu dùng Việt Nam đổ xô đi mua sắm. Người tiêu dùng thấy giá cả vừa phải, chấp nhận được, còn người bán, vốn ít lời cao càng tạo cơ hội cho hàng ngoại nhập hiện diện và làm đau đầu không ít các nhà sản xuất trong nước cũng như các nhà nhập khẩu. Nhưng nay, chính người tiêu dùng đã phát hiện và cẩn thận hơn khi lựa chọn hàng ngoại nhập và đã quay sang lựa chọn hàng Việt Nam có chất lượng để sử dụng.   

Hoàng Linh - [email protected]
Theo bà, làm thế nào để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm và dịch vụ nội địa, để doanh nghiệp tồn tại, phát triển trong bối cảnh thị trường bán lẻ cạnh tranh khốc liệt như hiện nay?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan - Chủ tịch Hiệp hội Các nhà Bán lẻ Việt Nam

Sản phẩm dịch vụ phải có sức cạnh tranh trước hàng ngoại nhập về mọi mặt: Chất luượng, tính đa dạng, giá cả, bao bì...

Như Thủ tướng Nguyễn xuân Phúc đã nói: Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam - nhưng bản thân hàng Việt phải chinh phục người tiêu dùng Việt Nam... 

Đối với doanh nghiệp, muốn tồn tại và phát triển thì cũng phải nâng cao năng lực cạnh tranh cửa mình để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ mà thị trường yêu cầu với giá cả và chất lượng tốt nhất.

Nguyễn Hoa - [email protected]
Là Tập đoàn gia dụng có nhiều mặt hàng được người tiêu dùng Việt Nam sử dụng, đặc biệt là sản phẩm máy lọc nước. Lý do vì đâu mà Kangaroo lựa chọn sản phẩm này là sản phẩm chiến lược?
Ông Lại Trung Tùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Kangaroo

Là đơn vị tiên phong, đầu tiên tại Việt Nam sản xuất và phân phối Máy lọc nước từ khi hầu hết người dân Việt Nam đều sử dụng các thiết bị lọc thô sơ như lọc bể cát, than hoạt tính, dàn mưa… Nhận thấy sự bất cập của các thiết bị này và mong muốn người dân Việt Nam được sử dụng các sản phẩm nhỏ gọn, tiện lợi và quan trọng là đảm bảo được chất lượng nước đầu ra cho sử dụng.

Với thế mạnh là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực này, đầu tư nghiên cứu bài bản với sự hợp tác của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, Kangaroo đã liên tục nghiên cứu và ứng dụng thành công các công nghệ lọc mới trong nhiều năm qua, đáp ứng được nhu cầu xử lý nước của đa số người dân Việt Nam cũng như một số nguồn nước có đặc điểm khác biệt như nước nhiễm asen, amip ăn não người. Mới đây nhất, việc phát triển thành công công nghệ tạo Hydrogen trong nước đã giúp Kangaroo đưa tới cho cộng đồng những giá trị sử dụng mới, một khái niệm mới trong xử lý nước, một nguồn nước vì sức khỏe cộng đồng.

Ông đánh giá như thế nào về "khả năng cạnh tranh" của DN Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay?
TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế

Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở nhiều khía cạnh và tiêu chí, nổi bật là về phản ứng nhanh nhạy với nhu cầu thị trường; năng lực đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, thiết bị máy móc phục vụ sản xuất và hoạt động kinh doanh; thị phần, giá cả, chất lượng, mẫu mã sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp;  sự tin cậy, giá trị thương hiệu trên thị trường và khả năng cung ứng ổn định, kịp thời theo yêu cầu hợp đồng với các đối tác; sự lành mạnh tài chính; khả năng quản trị rủi ro; thu hút lao động giỏi và quản lý lao động ...

Nhìn chung, DN Việt Nam đã có nhiều cải thiện năng lực cạnh tranh, một số thương hiệu có uy tín trong nước và quốc tế, giúp Việt Nam không ngừng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, giữ được thị phần khá ổn định và nhiều vị trí xuất khẩu hàng đầu thế giới. Việt Nam thuộc vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về tôm, cá tra, cà phê, hạt điều, hạt tiêu và gạo, sắn; về cao su đứng thứ tư, thủy - hải sản nói chung đứng thứ năm và chè đứng thứ bẩy thế giới. Ngành da giầy và dệt may đều vào Top 5 nước có thị phần lớn nhất thế giới. Hiện cả nước đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới được sử dụng giống mới…

Đặc biệt, nhờ ứng dụng công nghệ cao, xuất khẩu nông sản, nhất là rau quả cảu Việt Nam đã có bước tiến vượt trội, dự kiến đạt 33 tỷ USD năm 2017. Riêng 4 tháng đầu năm 2017, kim ngạch xuất khẩu rau quả lần đầu vượt kim ngạch xuất khẩu dầu thô, cụ thể: Kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 1 tỷ USD, tăng 32,1%; dầu thô đạt 933 triệu USD, tăng 34,9% (lượng giảm 6,1%).

Tuy nhiên, nhìn chung sức cạnh tranh của DN Việt Nam còn hạn chế ở hầu hết các mặt, nổi bật là trên 80% máy móc thiết bị mà khu vực DN sử dụng ở dạng  trung bình và lạc hậu, luôn nhập siêu và chưa chú ý cải thiện năng lực nhận biết, vượt qua hàng rào kỹ thuật, cũng như cạnh tranh quốc tế…Đa phần DN mới đảm nhận các công đoạn gia công hay sản xuất vật phẩm đơn giản, giá trị gia tăng thấp và ít có thương hiệu lớn, ổn định. Tỷ lệ DN dừng hoạt động, thua lỗ và phá sản còn cao; Thị phần và thị trường và thị phần tiêu thụ còn hẹp và thiếu ổn định…

Cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ về môi trường đầu tư và các chính sách khác,  nhiều DN đang có những nỗ lực đáng ghi nhận và mở ra nhiều kỳ vọng mới…!

Trọng Trinh - [email protected]
Nam Hải Group đã có công thức đặc biệt nào để tạo nên dấu ấn riêng trên con đường phát triển của mình?
Bà Nguyễn Thị Dung – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Nam Hải Group

Đó là sự dám làm, dám khẳng định có tầm nhìn và định hướng để truyền cảm  hướng cùng phát huy năng lực tập thể. Khuyến khích và nuôi dưỡng sự đổi mới theo đuổi để phát huy hết các giá trị cốt lõi. Bên cạnh đó luôn luôn nắm bắt phân  tích sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư để đầu tư đúng thời điểm có kế hoạch. Thận trọng nhưng không chậm chạp sẽ đem lại sự thành công. 

Đó là lý thuyết chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong suốt quá trình đầu tư nhằm đưa ra những sản phẩm có chất lượng tốt nhất, giá thành hợp lý nhất mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và cho xã hội. Để có được điều đó chúng tôi luôn nỗ lực tìm tòi nghiên cứu về sản phẩm, đi sâu về ứng dụng học hỏi kinh nghiệm của đối tác. 

Bên cạnh đó, với lợi thế 25 năm trong lĩnh vực kinh doanh nhôm chúng tôi có được vốn kiến thức thực tế về sản phẩm và ứng dụng. Chúng tôi xây dựng đội ngũ nghiên cứu sản phẩm mới, tối ưu hóa các mã màu để phù hợp với nhu cầu thực tế của từng giai đoạn từng phân khúc thị trường. Để sao cho phù hợp nhất mọi nhu cầu của người tiêu dùng và túi tiền của người tiêu dùng.

Vũ Thùy Linh - [email protected]
Có câu: “Người tiêu dùng không biết họ muốn gì đến chi chúng ta chỉ cho họ thấy”. Câu nói này được thể hiện như thế nào ở Nam Hải Group?
Bà Nguyễn Thị Dung – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Nam Hải Group

Các nhà sản xuất chúng tôi làm ra sản phẩm để phục vụ nhu cầu thị trường, phục vụ người tiêu dùng. Chúng tôi lấy nhu cầu của thị trường để làm mốc cho mọi sự đổi mới và sáng tạo nhằm đem lại giá trị phù hợp nhất với công năng sử dụng. Cụ thể như lĩnh vực sản xuất nhôm thành định hình của chúng tôi để đáp ứng nhu cầu thị trường đem lại sự tiện nghi cho không gian sống chúng tôi phải nghiên cứu và đưa ra yêu cầu cho sản phẩm của mình để phục vụ tốt nhất nhu cầu của thị trường. 

Ví dụ: Mỗi vùng miền có một kiểu khí hậu khác nhau để phù hợp được chúng tôi phải nghiên cứu ra các sản phẩm nhôm đáp ứng nhu cầu xây dựng và đem lại nhiều nhất lợi ích cho vùng miền đó. Cụ thể như miền Trung đặc trưng nắng, gió và biển mặn thì cần dòng sản phẩm có phẩm cấp và chất lượng sơn khác hẳn để chống lại sự han rỉ lão hóa của nhiệt độ cao và nước mặn. Với niềm Bắc 4 mùa và có tiết nồm ẩm ướt yêu cầu cao về tính kín khít. Để làm được điều đó chúng tôi phải chú trọng ngay từ nguồn nguyên liệu đầu vào, hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất và xây dựng hệ thống thông số kỹ thuật kèm theo. Nắm bắt kịp thời các xu hướng về màu sắc, về kiểu mẫu … Với tôi thì nhà sản xuất và người tiêu dùng là bạn đồng hành cùng phát triển.

Vũ Thùy Trang - [email protected]
Trở lại về câu chuyện chất lượng, người tiêu dùng luôn rất khắt khe, vậy yếu tố nào đưa các sản phẩm của Nam Hải Group đến với thị trường và được người tiêu dùng ủng hộ như vậy?
Bà Nguyễn Thị Dung – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Nam Hải Group
 

Tôi đồng tình với quan điểm người tiêu dùng rất khắt khe. Chính sự khắt khe ấy tạo nên sự phát triển cho doanh nghiệp tốt.Bạn biết đó người tiêu dùng họ bỏ ra đồng tiền để mua sản phẩm đồng nghĩa với việc họ mua một giá trị. Chất lượng của sản phẩm quyết định đến giá trị mà người tiêu dùng mua, nó phải phù hợp với mức chi trả họ đưa ra.Đó chính là yêu cầu chính đáng mà mọi nhà sản xuất phải tôn trọng.

Euroha chúng tôi là đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nhôm thanh định hình phục vụ các nhu cầu xây dựng. Chúng tôi ý thức một cách sâu sắc việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngay từ đầu quyết định đầu tư nhà máy chúng tôi xác định rõ sứ mệnh và tầm nhìn lấy tiêu chí chất lượng làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất. Trên cơ sở đó chúng tôi đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, hệ thông dây chuyền sản xuất theo tiêu chuẩn Châu Âu và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 – 2008. Chúng tôi sản xuất đa dạng hóa các mặt hàng để phục vụ tốt nhất nhu cầu của người dân từ dân dụng đến trung cấp rồi cao cấp và siêu cao cấp. Việc đa dạng hóa hệ thống sản phẩm chúng tôi đáp ứng hài hòa được mức độ chi trả cũng như sự khắt khe trong lựa chọn của người tiêu dùng.Đó chính là chìa khóa để chúng tôi đến gần hơn và được khách hàng tin yêu lựa chọn.

thương hiệu doanh nghiệp

Về đầu trang