Dùng núm vú giả tiềm ẩn nhiều hệ lụy đến răng miệng, ngôn ngữ và tai mũi họng của trẻ
(VietQ.vn) - Thói quen mút núm vú giả ở trẻ nhỏ phổ biến, giúp nín khóc, dễ ngủ nhưng kéo dài gây lệch răng, sai khớp cắn, chậm nói, viêm tai giữa, ảnh hưởng tâm lý và sự phát triển toàn diện của trẻ.
BAC A BANK hỗ trợ người trẻ hiện thực hóa giấc mơ an cư bằng gói vay ưu đãi đặc biệt
Chảo chống dính kém chất lượng: Tiện lợi hóa... mối nguy
Pin nhiên liệu bền vững từ nguồn nguyên liệu dồi dào trong tự nhiên
Núm vú giả từ lâu đã trở thành một vật dụng phổ biến, được xem như “cứu tinh” giúp trẻ nín khóc, dễ ngủ, đồng thời cha mẹ có thêm thời gian nghỉ ngơi hoặc tranh thủ làm việc. Thực tế, việc trẻ mút núm vú giả là một phản xạ tự nhiên và phổ biến trong giai đoạn sơ sinh. Tuy nhiên, nhiều cha mẹ chưa lường hết rằng thói quen tưởng chừng vô hại này có thể ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển răng hàm, khuôn mặt, ngôn ngữ, tai mũi họng và cả tâm lý trẻ.
Theo thống kê quốc tế, có khoảng 63% trẻ từ 0-6 tuổi từng sử dụng núm vú giả ít nhất một lần. Phần lớn trẻ dừng lại ở độ tuổi 2-4, nhưng vẫn có một tỉ lệ đáng kể kéo dài đến giai đoạn mọc răng vĩnh viễn. Đây chính là giai đoạn mà những rắc rối về răng miệng, ngôn ngữ, tai mũi họng và tâm lý bắt đầu xuất hiện.
Nguyên nhân trẻ thích mút vú giả xuất phát từ nhu cầu an toàn và thư giãn. Khi trẻ bị tách khỏi cha mẹ, tiếp xúc môi trường mới hoặc đối diện người lạ, núm vú giả giúp trẻ tự trấn an, giảm căng thẳng và dễ ngủ hơn. Trong một số tình huống y học, núm vú giả còn mang lại lợi ích giảm khó chịu trong các thủ thuật y khoa nhỏ, hỗ trợ giấc ngủ ở trẻ 1-4 tuổi bằng cách làm giảm nhịp tim, tăng hiệu quả hấp thu dinh dưỡng ở trẻ sinh non khi kết hợp với âm nhạc, và giảm nguy cơ đột tử sơ sinh khi ngủ bằng cách thay đổi vị trí lưỡi, tăng trương lực cơ đường hô hấp. Tuy nhiên, các chuyên gia nhấn mạnh rằng những lợi ích này chỉ nên áp dụng cho trẻ dưới 1 tuổi và trong thời gian ngắn.

Không nên cho trẻ lạm dụng ngậm núm vú giả vì tiềm ẩn nhiều hệ lụy. Ảnh minh họa
Theo thông tin từ Bệnh viện Vinmec, hệ lụy của việc sử dụng núm vú giả kéo dài rất đa dạng và nghiêm trọng. Khi cho trẻ dùng núm vú giả sớm quá có thể gây ảnh hưởng đến quá trình bú mẹ, do trẻ bị nhầm lẫn giữa núm giảm và ti mẹ sữ làm giảm lượng sữa mẹ và ảnh hưởng đến dinh dưỡng quý giá. Bên cạnh đó, núm vú giả kém chất lượng hoặc vệ sinh không tốt còn tiềm ẩn nguy cơ nghẹn, nghẹt thở, dị ứng với nhựa hoặc nhiễm khuẩn.
Về răng miệng và hàm mặt, trẻ có thể gặp các vấn đề lệch lạc khớp cắn, vẩu răng cửa, cắn hở, hàm trên hẹp hoặc cắn chéo. Nếu thói quen kéo dài khi răng vĩnh viễn bắt đầu mọc (khoảng 6 tuổi), những lệch lạc này có thể tồn tại suốt đời, buộc phải chỉnh nha phức tạp. Sử dụng núm vú giả liên tục trong hơn 18 tháng còn làm tăng nguy cơ sâu răng gấp đôi so với nhóm trẻ không sử dụng.
Ngoài ảnh hưởng đến răng hàm mặt, thói quen này còn tác động đến ngôn ngữ và giao tiếp. Núm vú giả lấp đầy khoang miệng, hạn chế trẻ bập bẹ, bắt chước âm thanh và phát triển kỹ năng giao tiếp. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ ngậm vú giả lâu dài có nguy cơ chậm nói gấp ba lần so với trẻ không sử dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng học tập và hòa nhập xã hội sau này.
Thói quen ngậm núm vú giả cũng liên quan đến các vấn đề tai mũi họng. Trẻ dưới 4 tuổi sử dụng núm vú giả thường xuyên có nguy cơ viêm tai giữa tái phát tăng gấp đôi, do vi khuẩn dễ dàng di chuyển từ miệng và mũi vào tai giữa. Hơn nữa, thói quen này còn tác động đến tâm lý và cảm xúc. Trẻ phụ thuộc vào núm vú giả sẽ khó tự trấn an khi thiếu nó, gây căng thẳng và quấy khóc, ảnh hưởng đến bố mẹ và các thành viên trong gia đình. Các nghiên cứu cho thấy bé trai ngậm vú giả nhiều có biểu cảm khuôn mặt hạn chế, kỹ năng nhận diện và thể hiện cảm xúc thấp hơn khi trưởng thành, trong khi bé gái ít bị ảnh hưởng hơn nhờ sự linh hoạt trong phát triển cảm xúc.
Lưỡi trẻ khi mút núm vú giả sẽ ở tư thế thấp xu hướng đưa ra phía trước làm miệng hở và hàm dưới đưa ra. Trẻ thường nuốt phải không khí vào dạ dày khi dùng núm ngậm. Quá nhiều không khí trong dạ dày sẽ khiến trẻ đầy bụng. Khi đã cho bé ngậm vú giả thì bé sẽ phụ thuộc vào núm, nếu không có núm vú bé sẽ không chịu ngủ hay rất khó chịu. Đặc biệt, khi cần dừng thì sẽ phải cai núm giả, việc cai núm giả có thể không dễ dàng đối với trẻ. Nếu núm giả không được vệ sinh thường xuyên và đúng cách thì dễ làm bé bị viêm họng hay tiêu chảy. Nhiều trẻ mới mọc răng có xu hướng cắn núm giả, nếu trong lúc ngủ dễ bị nuốt phải mảnh cắn gây hóc.
Để giúp trẻ bỏ thói quen này, phụ huynh có thể áp dụng nhiều phương pháp. Một số cách phổ biến gồm gián đoạn đột ngột, giải thích cho trẻ hiểu hậu quả xấu, bôi chất khó chịu lên núm vú giả hoặc sử dụng phần thưởng để khuyến khích trẻ từ bỏ. Ngoài ra, các loại núm vú giả chỉnh nha được thiết kế nhằm hạn chế tác động xấu đến xương hàm, nhưng đây chỉ là giải pháp tạm thời, không thay thế cho việc cai bỏ đúng lúc.
Các chuyên gia khuyến cáo cha mẹ nên cai vú giả trước 3-4 tuổi, duy trì bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và kết hợp bú mẹ đến 2 tuổi. Việc giảm dần thời gian dùng trong ngày, chỉ cho ngậm khi buồn ngủ rồi loại bỏ hẳn, kết hợp khen thưởng và khuyến khích, sẽ giúp trẻ tự hào và dễ thích nghi hơn. Bên cạnh đó, nên đưa trẻ đi khám nha khoa định kỳ để phát hiện sớm các sai lệch về răng và khớp cắn.
Như vậy, mặc dù núm vú giả có vai trò hỗ trợ trong giai đoạn sơ sinh, việc sử dụng kéo dài lại tiềm ẩn nhiều hệ lụy nguy hại. Việc kiểm soát và loại bỏ thói quen này kịp thời sẽ giúp trẻ phát triển răng hàm mặt, ngôn ngữ, tai mũi họng và tâm lý một cách lành mạnh, tạo nền tảng cho sự phát triển toàn diện trong tương lai.
Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 10068-2:2013 (EN 1400-2:2002) quy định các yêu cầu cơ học và phương pháp thử đối với ty giả dành cho em bé và trẻ nhỏ.
Tiêu chuẩn này nhằm đảm bảo an toàn khi sử dụng ty giả, giảm thiểu rủi ro tai nạn có thể xảy ra trong tương lai. Cần nhấn mạnh rằng tiêu chuẩn này không loại trừ được tất cả các rủi ro có thể cho em bé và trẻ nhỏ khi sử dụng, do đó việc kiểm soát của cha mẹ hoặc người giám hộ là rất quan trọng.
Tiêu chuẩn này áp dụng cho các sản phẩm tương tự hoặc có chức năng giống như ty giả, trừ khi chúng được bán như các dụng cụ y tế. Tiêu chuẩn này không áp dụng cho sản phẩm được sử dụng trong các ứng dụng y tế chuyên biệt, ví dụ, các sản phẩm dùng cho người bị hội chứng Pierre-Robin hoặc trẻ sinh non.
Ngoài ra, tiêu chuẩn này khuyến nghị các nhà sản xuất và nhà cung cấp áp dụng TCVN ISO 9000 trong hệ thống quản lý chất lượng để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Lưu ý rằng tất cả các chi tiết bằng chất dẻo được điều chỉnh bởi Chỉ thị 90/128/EEC về vật liệu và các chi tiết bằng chất dẻo tiếp xúc với thực phẩm. Cũng lưu ý sự giải phóng các N-nitrosamin và các chất có khả năng chuyển hóa thành từ núm ty và ty giả bằng elastome hoặc cao su được quy định bởi các điều khoản của Chỉ thị 93/11/EEC.
An Dương (T/h)









