Ngành nhựa Việt Nam bứt phá từ sản xuất thủ công đến đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất
(VietQ.vn) - Ngành nhựa Việt Nam đang bứt phá mạnh mẽ, chuyển từ sản xuất thủ công sang ứng dụng công nghệ hiện đại. Quy trình đổi mới giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh quốc tế.”
Sự kiện: Chuyên đề: NÂNG CAO NĂNG SUẤT CHẤT LƯỢNG
Chuyển đổi kép - Nền tảng tăng năng suất, sức cạnh tranh doanh nghiệp công nghiệp và năng lượng
THACO: Chú trọng nghiên cứu và ứng dụng KH&CN nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
Đề án 996: Bứt phá đổi mới đo lường, thúc đẩy chất lượng và năng suất doanh nghiệp
Từ những hạt nhựa thô sơ và vài chục cơ sở sản xuất manh mún trong những năm đầu đổi mới, ngành nhựa Việt Nam ngày nay đã phát triển thành một hệ sinh thái với hơn 5000 doanh nghiệp đang hoạt động. Ngành công nghiệp này không chỉ đóng vai trò then chốt trong chế biến – chế tạo mà còn góp phần quan trọng vào nền kinh tế quốc gia. Sự lớn mạnh của ngành diễn ra trong bối cảnh toàn cầu đang thúc đẩy phát triển bền vững, và ngành nhựa Việt Nam đang nỗ lực bước vào “kỷ nguyên xanh”, hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn.
Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), ông Đinh Đức Thắng, nhớ lại giai đoạn ngành còn ở điểm xuất phát thấp. Khi đó, dây chuyền sản xuất chủ yếu là thiết bị cũ, năng suất thấp; phần lớn nguyên liệu phải nhập khẩu; sản lượng toàn ngành mới đạt khoảng 380.000 tấn/năm; mức tiêu thụ bình quân đầu người chỉ 3,8 kg/năm. Thị trường trong nước chủ yếu bị chiếm lĩnh bởi sản phẩm ngoại nhập. Những hạn chế này đã buộc ngành phải suy xét toàn diện vòng đời của sản phẩm nhựa, từ tiết giảm sử dụng tài nguyên, hạn chế phát thải đến tăng khả năng tái sử dụng và tái chế.
Trong bối cảnh nhu cầu nhựa trong xây dựng, logistics và tiêu dùng tăng cao, VPA dự báo giai đoạn 2023 – 2028, ngành nhựa sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 8,4%/năm. Để nắm bắt cơ hội, nhiều doanh nghiệp đã chọn con đường đổi mới công nghệ như động lực then chốt. Họ đầu tư vào dây chuyền ép phun, ép đùn, ép thổi tự động, phát triển khuôn chính xác và robot hóa khâu đóng gói. Sự chuyển dịch sang công nghệ cao không chỉ nâng năng suất, ổn định chất lượng và giảm chi phí mà còn tạo nền tảng để sản phẩm nhựa Việt Nam đạt chuẩn quốc tế.

Nhờ những bước tiến này, các nhà máy vận hành tự động hóa và sản phẩm “Made in Vietnam” đã dần xuất hiện tại các thị trường khó tính như châu Âu, Nhật Bản, và Hoa Kỳ. Đây là minh chứng rõ ràng cho năng lực cạnh tranh mới của ngành nhựa Việt Nam, được xây dựng từ quyết tâm đổi mới và tầm nhìn dài hạn của doanh nghiệp trong nước.
Trong quá trình này, nhiều doanh nghiệp tiên phong đã trở thành thương hiệu quốc dân như Bình Minh, Tiền Phong, Rạng Đông, Duy Tân, Tân Tiến, Đại Đồng Tiến, góp phần kiến tạo diện mạo mới cho ngành nhựa Việt Nam. Bên cạnh các tập đoàn lớn, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) cũng đang từng bước nâng cấp công nghệ, hiện đại hóa sản xuất và xây dựng văn hóa vận hành chuyên nghiệp. Trong số đó, VinaStar, Nam Thái Sơn và Nhựa Âu Lạc là những đại diện tiêu biểu, minh chứng cho sự chuyển mình từ mô hình sản xuất thủ công truyền thống sang hướng hiện đại, linh hoạt và bền vững.
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Nhựa Kỹ thuật VinaStar (gọi tắt là VinaStar) là một doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành công nghiệp nhựa kỹ thuật đã ghi dấu ấn mạnh mẽ khi tham gia dự án “Hoàn thiện mô hình tổng thể nâng cao năng suất và chất lượng. Từ đây, hành trình cải tiến toàn diện của VinaStar được khởi động, mở ra bước chuyển mình mạnh mẽ: từ đổi mới kỹ thuật, ứng dụng công nghệ hiện đại đến chuyển đổi số kho vận và phát triển văn hóa doanh nghiệp. Những thay đổi này không chỉ giúp tăng hiệu suất, giảm chi phí mà còn đặt nền móng cho một mô hình nhà máy thông minh, phù hợp với xu thế sản xuất hiện đại.
Trong khi đó, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Nam Thái Sơn Phương Bắc, thành viên của Tổng Công ty Nam Thái Sơn với gần 40 năm hoạt động trong lĩnh vực bao bì nhựa, cũng cho thấy bản lĩnh vươn lên mạnh mẽ. Doanh nghiệp không chỉ đầu tư dây chuyền hiện đại và đã triển khai chương trình 5S, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 mà còn đẩy mạnh các dòng sản phẩm thân thiện môi trường như màng tự hủy và bao bì tái chế. Chiến lược “xanh hóa” sản xuất giúp Nam Thái Sơn duy trì lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị trường và đáp ứng yêu cầu khắt khe từ khách hàng trong nước và quốc tế.
Cùng với sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời vì mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ quyền lợi người dùng và môi trường sống, Công ty TNHH MTV Ứng dụng Công nghệ Kỹ thuật Nhựa Âu Lạc (Alta Plastics) đã áp dụng kỹ thuật khoa học công nghệ tiến tiến vào quá trình sản xuất nhằm tối ưu hóa sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, doanh nghiệp đã kịp thời hưởng ứng, phát triển theo định hướng bền vững, bảo vệ môi trường.
Ông Hoàng Minh Anh Tú - Tổng Giám đốc Công ty Nhựa Âu Lạc cho biết: "Nguyên liệu sản xuất của chúng tôi được làm từ hạt nhựa sinh học có khả năng phân hủy trong môi trường tự nhiên, một phần được tái tạo từ ngô, sắn - những phế phẩm nông nghiệp trong nước. Song song đó, nhà máy sử dụng 100% năng lượng mặt trời, áp dụng công nghệ in 3D giúp tiết kiệm điện năng, cùng hệ thống pin dự trữ để sử dụng hiệu quả trong giờ cao điểm".
Những doanh nghiệp trên, dù không phải là “đại gia” ngành, lại chính là lực lượng quan trọng, tạo nền tảng bền vững cho ngành nhựa Việt Nam. Họ chứng minh rằng đổi mới kỹ thuật, ứng dụng công nghệ và xây dựng văn hóa doanh nghiệp không chỉ là câu chuyện của các tập đoàn lớn, mà còn là con đường tất yếu để các SME tồn tại, phát triển và vươn lên trong nền kinh tế tuần hoàn.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, theo GS.TS Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia Singapore), ngành nhựa vẫn đối mặt với nhiều hạn chế: “Khoảng 80 - 85% hạt nhựa nguyên sinh phải nhập khẩu, trong khi tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu chỉ đạt 15 - 20%. Cấu trúc doanh nghiệp phân mảnh, giá trị gia tăng thấp khiến ngành dễ tổn thương trước biến động giá dầu và tỷ giá.”
Ông Khương cho rằng để tiến tới chuỗi giá trị xanh và tuần hoàn, Việt Nam cần phát triển mạnh công nghiệp hóa dầu, sản xuất nguyên liệu tái chế, hạ tầng thu gom và hệ thống tiêu chuẩn quốc tế cho sản phẩm tái sinh.
Liên quan tới xây dựng quy chuẩn vật liệu tái chế, Hiệp hội Nhựa Việt Nam và Hiệp hội Tái chế chất thải Việt Nam đã ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác giai đoạn 2025 - 2028, hướng tới xây dựng chuẩn kỹ thuật vật liệu tái chế, chia sẻ dữ liệu công nghệ, thị trường, đào tạo nhân lực và thí điểm mô hình thu gom, phân loại tái chế tại địa phương.
Với phương châm “Khát vọng vươn tầm – Xây dựng một ngành nhựa Việt Nam xanh, hiện đại, hội nhập và thịnh vượng”, Hiệp hội Nhựa Việt Nam khẳng định ngành nhựa sẽ hòa nhập cùng nhịp phát triển của đất nước, kiên định bước vào kỷ nguyên thịnh vượng và hội nhập. Chính sự đóng góp của cả doanh nghiệp lớn, nhỏ và vừa, cùng nỗ lực đổi mới công nghệ và xây dựng văn hóa doanh nghiệp chuyên nghiệp, đang đặt nền móng cho một ngành nhựa Việt Nam hiện đại, năng động và xanh hơn.
An Dương









