TCVN 14176-2:2024 về khung phân loại tổ chức thông tin công trình xây dựng
(VietQ.vn) - Tiêu chuẩn TCVN 14176-2:2024 đưa ra khung phân loại thông tin cho công trình xây dựng, giúp các bên tham gia dự án có chung “ngôn ngữ dữ liệu”, từ đó quản lý, chia sẻ và khai thác thông tin hiệu quả hơn trong tiến trình chuyển đổi số.
TCVN 13230:2025 về từ vựng của rô bốt cho môi trường công nghiệp
TCVN 13698:2023 về tay máy rô bốt công nghiệp: Chuẩn hóa đặc tính, nâng cao năng suất
TCVN 14307-1:2025 về sản xuất bồi đắp bằng ép đùn vật liệu nhựa
Trong bối cảnh ngành xây dựng Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số, việc thống nhất cách tổ chức và trao đổi dữ liệu công trình trở thành yêu cầu cấp thiết. Theo đó mô hình thông tin công trình và các hình thức hợp đồng mới yêu cầu phải sử dụng nhiều loại thông tin khác nhau. Đặc biệt, mô hình thông tin công trình là việc trao đổi thông tin trong suốt các giai đoạn của dự án, giữa các bên liên quan và các ứng dụng của dự án. Điều này cũng đúng với các loại hợp đồng hợp tác.
Để việc trao đổi này thành công, cần có một cách tiếp cận đầy đủ và nhất quán để phân loại đối tượng xây dựng trong dự án và giữa các dự án. Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 14176-2:2024 được xây dựng nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin xuyên suốt. Tiêu chuẩn này tương đương với ISO 12006-2:2015, đã tạo ra bước tiến quan trọng trong việc chuẩn hóa cấu trúc thông tin, giúp quản lý hiệu quả hơn từ khâu thiết kế, thi công đến vận hành, bảo trì.
Theo nội dung tiêu chuẩn, khung phân loại được hiểu là hệ thống cấu trúc dùng để sắp xếp thông tin về công trình xây dựng một cách có hệ thống, nhất quán. Việc áp dụng khung phân loại giúp các bên tham gia dự án từ chủ đầu tư, đơn vị thiết kế, nhà thầu thi công đến cơ quan quản lý có thể hiểu cùng một ngôn ngữ thông tin, tránh sai lệch trong mô tả và trao đổi dữ liệu.
TCVN 14176-2:2024 nêu rõ thông tin công trình cần được tổ chức theo bốn lớp chính: đối tượng (các thành phần vật lý như tường, cột, dầm, sàn, mái, thiết bị cơ điện, hạ tầng), không gian (các khu vực chức năng trong công trình như phòng, hành lang, tầng, khu kỹ thuật), quá trình (mô tả các hoạt động như thiết kế, thi công, nghiệm thu, bảo trì), và tài nguyên (vật liệu, nhân công, máy móc, năng lượng). Cấu trúc này cho phép gắn mã định danh thống nhất cho từng đối tượng, đảm bảo khi dữ liệu được chuyển đổi giữa các phần mềm hoặc đơn vị khác nhau, nghĩa của thông tin vẫn được giữ nguyên yếu tố cốt lõi để mô hình BIM hoạt động đồng bộ.

TCVN 14176-2:2024 là “ngôn ngữ chung” cho dữ liệu công trình Việt Nam. Ảnh minh họa
Một điểm quan trọng của TCVN 14176-2:2024 là tiêu chuẩn không đưa ra bảng phân loại cố định, mà hướng dẫn cách thiết lập khung phân loại phù hợp với từng loại dự án hoặc hệ thống quốc gia. Mỗi tổ chức, bộ ngành hoặc doanh nghiệp có thể xây dựng hệ thống phân loại riêng, miễn tuân thủ cấu trúc và nguyên tắc chung. Điều này giúp linh hoạt áp dụng nhưng vẫn đảm bảo tính thống nhất khi trao đổi dữ liệu giữa các dự án, giữa khu vực công và tư, hoặc trong môi trường hợp tác quốc tế.
Tiêu chuẩn cũng yêu cầu mỗi đối tượng trong mô hình thông tin phải có mã định danh duy nhất (Unique ID), có thể liên kết với dữ liệu kỹ thuật, hồ sơ pháp lý, chi phí hoặc tiến độ thi công. Nhờ đó, khi cần truy xuất thông tin về một hạng mục cụ thể ví dụ cột bê tông hay hệ thống điện tầng 5 người dùng có thể nhanh chóng tra cứu toàn bộ thông tin liên quan, từ vật liệu, nhà cung cấp đến thời gian bảo trì.
Bên cạnh đó, TCVN 14176-2:2024 khuyến khích sử dụng mã phân loại có thể mở rộng để tích hợp với các hệ thống quốc tế. Hướng dẫn này giúp dữ liệu công trình Việt Nam có khả năng tương thích cao hơn, phục vụ tốt cho các dự án hợp tác nước ngoài hoặc ứng dụng công nghệ quốc tế.
Việc áp dụng khung phân loại thống nhất không chỉ giúp tổ chức thông tin khoa học mà còn tăng tính minh bạch trong quản lý xây dựng. Khi toàn bộ dữ liệu được gắn mã định danh và mô tả theo cấu trúc chuẩn, việc kiểm tra, phê duyệt, nghiệm thu hay giám sát chất lượng đều có thể thực hiện dựa trên dữ liệu số, giảm phụ thuộc vào hồ sơ giấy hoặc thao tác thủ công.
Theo định hướng của Bộ Xây dựng, việc triển khai tiêu chuẩn này sẽ giúp giảm đáng kể chi phí trùng lặp trong thiết kế và quản lý dữ liệu, đồng thời hạn chế rủi ro sai sót khi thông tin bị diễn giải sai lệch giữa các bên. Đây cũng là nền tảng để hình thành cơ sở dữ liệu công trình quốc gia – nơi lưu trữ thống nhất thông tin về các dự án hạ tầng và dân dụng trên toàn quốc.
TCVN 14176-2:2024 không chỉ là một tiêu chuẩn kỹ thuật mà còn là công cụ chiến lược trong lộ trình chuyển đổi số ngành xây dựng. Khi được áp dụng đồng bộ cùng các tiêu chuẩn khác trong bộ TCVN 14176 về trao đổi dữ liệu, quản lý thông tin và mô hình BIM, tiêu chuẩn này sẽ giúp hình thành hệ sinh thái dữ liệu thống nhất, hỗ trợ các công nghệ như trí tuệ nhân tạo, mô phỏng 3D, phân tích vòng đời công trình hay bảo trì dự báo.
Bộ Xây dựng định hướng trong thời gian tới, các dự án vốn ngân sách nhà nước, dự án đầu tư công và công trình trọng điểm sẽ từng bước bắt buộc áp dụng BIM và hệ thống phân loại thông tin theo TCVN 14176-2:2024. Đây là bước chuẩn hóa dữ liệu quan trọng trước khi tiến tới chính phủ điện tử và đô thị thông minh trong lĩnh vực xây dựng.
Có thể nói, TCVN 14176-2:2024 là “ngôn ngữ chung” cho dữ liệu công trình Việt Nam, giúp gỡ bỏ rào cản giữa các phần mềm, doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Khi thông tin được tổ chức và chia sẻ có cấu trúc, quá trình ra quyết định trở nên minh bạch, chính xác và hiệu quả hơn. Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 cơ bản hoàn thành chuyển đổi số ngành xây dựng, việc triển khai các tiêu chuẩn như TCVN 14176-2:2024 sẽ là bước đệm quan trọng để hình thành nền tảng dữ liệu thống nhất, hướng tới ngành xây dựng số, thông minh và bền vững.
An Dương









