Thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân nâng cao NSCL bằng chính sách 'vừa hỗ trợ vừa gây sức ép'
(VietQ.vn) - "Để nâng cao NSCL, chính sách phải đột phá, "ép" doanh nghiệp phải lớn, phải vươn mình đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên mới. Ở đây là gây sức ép lành mạnh", PGS.TS Phan Chí Anh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội thẳng thắn chia sẻ trong cuộc trao đổi với PV Chất lượng Việt Nam.
Khi công nghệ mới tái định hình ngành công nghiệp tin tức
Việt Nam tiếp tục củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu
Mở rộng cung ứng sản phẩm nông nghiệp chất lượng của Việt Nam cho thị trường Singapore
Thưa PGS. TS Phan Chí Anh, ông đánh giá thế nào về mối liên hệ giữa NSCL doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia?
Năng lực cạnh tranh, theo lý thuyết kinh tế kinh điển là một trong những mục tiêu phát triển kinh tế nhằm duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, tạo ra các lợi thế cạnh tranh. Người ta nhấn mạnh cạnh tranh tức là tạo sự khác biệt, cái mới và có năng lực cốt lõi. Từ những năm 1910 đến 2000, khi nói đến năng suất, người ta thường gắn nó với năng lực cạnh tranh. Nhưng hiện nay, bên cạnh cạnh tranh, phát triển bền vững đang được chú trọng.
Ở Việt Nam, lý thuyết kinh tế thường nói nhiều đến phát triển bền vững hơn là cạnh tranh đơn thuần. Vì một nền kinh tế phải học hỏi, hội nhập, doanh nghiệp cũng vậy. Chiến thắng trong cuộc cạnh tranh giữa doanh nghiệp tôi và anh không phải mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu cuối cùng là phát triển bền vững, tạo mối quan hệ “Win-Win”. Chưa kể, bây giờ nâng cao năng lực cạnh tranh còn thông qua chuỗi cung ứng. Không phải công ty tôi tốt hơn anh mà chuỗi cung ứng của tôi vượt trội hơn. Nếu tôi sụp đổ, cả chuỗi cũng đổ theo, mất tính bền vững.
Vì vậy, để nâng cao NSCL, tôi thấy có hai điểm cụ thể: Thứ nhất, doanh nghiệp Việt Nam cần duy trì lợi thế trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách nâng cao NSCL sản phẩm để tạo ưu thế cạnh tranh. Thứ hai, xây dựng nền tảng phát triển bền vững, hỗ trợ doanh nghiệp tự lực, tự chủ, tự cường. Từ đó, doanh nghiệp ít bị tác động bởi yếu tố bên ngoài. Nâng cao NSCL đương nhiên giúp tăng lợi thế cạnh tranh.

PGS. TS Phan Chí Anh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, theo ông, đâu là nguyên nhân chính khiến NSCL của nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt như kỳ vọng?
Theo cách tiếp cận truyền thống, để nâng cao NSCL, doanh nghiệp phải tăng vốn – cách đơn giản nhất là “đầu tư nhiều thì giá trị tăng lên”.
Nhưng những doanh nghiệp này cũng có lợi thế vì không bị ràng buộc bởi quy tắc cứng nhắc, dễ áp dụng công nghệ, đi tắt đón đầu. Ví dụ, việc giải cứu nông sản qua sàn giao dịch giúp nông dân bỏ qua trung gian, đưa sản phẩm thẳng đến thị trường. Trước đây, họ phải liên kết qua hợp tác xã, chuỗi giá trị, nhưng giờ thì không cần. Tôi khuyên doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ để nâng cao NSCL cần tận dụng lợi thế con người và công nghệ.
Theo lý thuyết của Michael Porter, doanh nghiệp nên tập trung vào điểm mạnh để bù đắp những điểm yếu làm sao hạn chế thiệt hại và tạo lợi thế cạnh tranh.
Thứ hai, khi đã có vốn, chìa khóa là con người. Con người phải được huấn luyện, đào tạo. Nhưng ở Việt Nam, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa tới 60%, lao động được đào tạo chuyên môn chỉ khoảng 25%. Cứ 4 người lao động thì chỉ 1 người được đào tạo nên năng suất thấp là khó tránh khỏi.
Thứ ba, khi giải quyết được vốn và con người, doanh nghiệp cần hệ thống quản trị, như áp dụng tiêu chuẩn quốc tế ISO, tiêu chuẩn quốc gia TCVN và các công cụ tiên tiến như 5S, Kaizen, Lean, 6 Sigma, TPM, KPI, MFCA, BSC…
Thứ tư, đầu tư công nghệ – áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT) vào quản trị, sản xuất, nâng cao dịch vụ và trải nghiệm khách hàng.
Như vậy là hành trình của nâng cao năng suất trên thế giới đi qua các cái giai đoạn: Vốn đầu tư, con người, quản trị và công nghệ.
Nhưng tại sao ở Việt Nam lại thấp? Vì chúng ta đang giải quyết đồng thời cả 4 thứ này. Có khu vực vẫn phải tăng vốn, có nơi đang đào tạo lao động, có chỗ áp dụng quản trị và giờ là câu chuyện đầu tư công nghệ.
Lý do chính là xuất phát điểm của doanh nghiệp nội địa quá thấp so với doanh nghiệp nước ngoài như Samsung, Toyota, Ford – trải qua hàng trăm năm phát triển, thừa hưởng tiến bộ khoa học công nghệ. Đó là nguyên nhân chính.
Ở góc độ vĩ mô, chính sách hiện nay của Nhà nước đã đủ mạnh để thúc đẩy NSCL cho doanh nghiệp chưa, thưa ông?
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bản chất của chính sách là tìm ra động lực và nguồn lực mới. Nguồn lực thúc đẩy năng lực cạnh tranh, động lực tạo đột phá.
Trước đây, ta tập trung vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI ra nhiều chính sách hỗ trợ để tạo cho người dân công ăn việc làm, khuyến khích doanh nghiệp phát triển). Nhưng giờ, khu vực FDI không còn tạo khác biệt lớn. Gần 3.000 doanh nghiệp nước ngoài báo lỗ triền miên, đóng góp cho đất nước ta rất ít, dù vẫn giải quyết được câu chuyện việc làm. Vậy động lực chính để phát triển kinh tế kỷ nguyên mới nằm ở đâu?
Thực tế, có 3 nhóm doanh nghiệp: FDI, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Thống kê cho thấy, doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 10-20% nguồn lực nhưng đóng góp 50% GDP. Trong khi đó, FDI và doanh nghiệp nhà nước sử dụng tài nguyên lớn nhưng đóng góp thấp hơn.
Tôi cho rằng, chính sách cần thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân, vừa hỗ trợ vừa gây sức ép. Ví dụ, bắt buộc trích 1-2% doanh thu cho đào tạo, đầu tư công nghệ, đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp lớn như VNPT, Viettel dành 5-8% cho khoa học công nghệ, cho nên doanh nghiệp tư nhân cũng cần bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Chỉ khi có sức ép, doanh nghiệp mới đổi mới và vươn lên.

PGS. TS Phan Chí Anh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội trao đổi với phóng viên Chất lượng Việt Nam.
Đứng ở góc độ giáo dục, không trường đại học nào đào tạo sinh viên ra làm được ngay. Đại học chỉ cung cấp nền tảng kiến thức, doanh nghiệp phải đào tạo thêm. Với 900.000 doanh nghiệp, mỗi nơi có mô hình, khách hàng, sản phẩm khác nhau nên doanh nghiệp cần đầu tư đào tạo con người để đáp ứng nhu cầu thực tế. Ví dụ như Tập đoàn Toyota sẽ có 1-2 năm dành cho việc đào tạo nhân lực.
Như tôi nói với sinh viên của mình là có 4 cách để có tri thức: Một, học như tri – học để có tri thức; Hai, hành như tri – thực hành để tạo ra kiến thức; Ba, du như tri – giao lưu để có thêm tri thức; Bốn, nan như tri – chỉ khi rơi vào tình cảnh khó khăn, gian khổ ta phải tự vận động tìm biện pháp để thoát khỏi nghịch cảnh.
Thứ nhất, về chính sách phải đột phá, "ép" doanh nghiệp phải lớn, phải vươn mình đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên mới. Ở đây là gây sức ép lành mạnh với doanh nghiệp.
Hỗ trợ hay gây sức ép cho doanh nghiệp cũng cần hướng đến công bằng, nhưng công bằng không có nghĩa là chia đều. Ví dụ doanh nghiệp siêu nhỏ sẽ cần được hỗ trợ nhưng nên hỗ trợ gián tiếp thông qua các hiệp hội hoặc hỗ trợ doanh nghiệp lớn, từ doanh nghiệp lớn đến những doanh nghiệp nhỏ. Về giáo dục, tôi đề xuất đặt mục tiêu là mỗi trường có một chuyên gia NSCL. Có sinh viên được đào tạo về NSCL.
Cái thứ hai, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa phải coi vị trí Trưởng phòng chất lượng của doanh nghiệp là chứng chỉ nghề nghiệp bắt buộc. Ở Nhật họ đã áp dụng chứng chỉ bắt buộc cho Trưởng phòng chất lượng từ thế kỷ trước. Trưởng phòng chất lượng (QC) phải có chứng chỉ của Nhà nước.
Theo ông, cần có giải pháp gì để gắn khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số vào việc thúc đẩy năng suất của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng?
Khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là ba lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi cách tiếp cận riêng biệt. Khoa học tập trung vào nghiên cứu cơ bản, khám phá quy luật mới, thường mất hàng chục năm. Công nghệ là việc ứng dụng khoa học vào thực tiễn, triển khai trong vài năm. Còn chuyển đổi số là nhiệm vụ cấp bách, chỉ vài tháng đã có thể thấy kết quả. Do đó, mỗi lĩnh vực cần cách làm và người lãnh đạo phù hợp.
Theo tôi, ưu tiên hiện nay là phát triển công nghệ. Trong buổi thảo luận tổ sáng 15/2 về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm chính sách tháo gỡ vướng mắc cho KHCN và ĐMST, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra vấn đề của Luật Đấu thầu: “Đấu thầu không khuyến khích mua thiết bị tiên tiến, đắt tiền, mà thường chọn thứ rẻ nhất. Điều này dễ biến Việt Nam thành bãi rác công nghệ, thậm chí tiếp nhận công nghệ lạc hậu từ nước ngoài". Tổng Bí thư cũng lưu ý, một số nền kinh tế không phát triển KHCN được vì vướng vào vốn cũ, loay hoay thu hồi vốn thay vì đầu tư mới. Việt Nam cần tránh lặp lại sai lầm đó.
Về chuyển đổi số, cần cải thiện khung pháp lý để KHCN phát triển nhanh và ứng dụng rộng rãi vào đời sống. Nhiều người nói “nghiên cứu khoa học xong rồi đút gầm bàn” – điều này không sai. Tôi từng chứng kiến khi học ở Nhật: một nghiên cứu 5 năm về đồng tiền chung châu Á rất hay về lý thuyết nhưng khó áp dụng; hay một học viên Việt Nam nghiên cứu chống cản gió cho tòa nhà trên 600m, trong khi tòa cao nhất Nhật lúc đó chỉ 450m. Nghiên cứu khoa học thường hướng đến tương lai xa, không phải lúc nào cũng ứng dụng ngay được.
Vậy theo ông, đâu là ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển NSCL của Việt Nam trong thời gian tới?
Nếu để chọn một trong chính sách phát triển của NSCL trong những năm tới, theo tôi phải ưu tiên vào doanh nghiệp tư nhân. Chính sách là hỗ trợ và gây sức ép.
Đầu tiên, để NSCL phát triển doanh nghiệp phải có phương pháp, mô hình, cách làm riêng, không nên áp dụng cứng các công cụ, phương pháp từ nước ngoài do xuất phát điểm của mỗi nước là khác nhau.
Thứ hai, Nhà nước cần tập trung cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đầu tư vào hệ thống quản trị chất lượng, con người chất lượng, sản phẩm bắt buộc phải hợp chuẩn hợp quy.
Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021 – 2030 (Chương trình 1322),…
Thứ ba, cần hợp tác với hệ thống giáo dục đào tạo con người NSCL, mới đây là cuộc thi Năng suất sinh viên, ý tưởng tổ chức cuộc thi xuất phát từ mong muốn tạo ra một sân chơi bổ ích, giúp sinh viên tiếp cận các khái niệm về năng suất một cách thực tế và sinh động hơn. Những cuộc thi như thế này cũng có thể áp dụng cho giảng viên các trường đại học. Tại sao không biến việc học hỏi về năng suất thành một cuộc thi hấp dẫn? Điều này không chỉ giúp giảng viên nâng cao kiến thức mà còn tạo ra động lực mạnh mẽ để họ ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy.
Nếu tổ chức một cuộc thi có tính cạnh tranh và tương tác cao, giảng viên sẽ bị cuốn hút vào quá trình học hỏi, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức. Đây chính là cách truyền tải thông điệp về năng suất theo cách mới lạ và hiệu quả hơn. Không dừng lại ở một cuộc thi mà sẽ tạo nên một phong trào năng suất, đưa năng suất gần hơn đến xã hội.
Tuy nhiên một trong những thách thức lớn nhất khi tổ chức các cuộc thi học thuật là duy trì sự liên tục và phát triển lâu dài. Để đảm bảo tính bền vững, cuộc thi này cần được tổ chức định kỳ hằng năm, tạo nên một phong trào học tập và nghiên cứu về năng suất trong các trường đại học. Vì đã xây dựng được nền tảng rồi thì không thể dừng lại, nếu dừng lại, chúng ta sẽ mất đi động lực và đà phát triển.
Một điểm đáng chú ý là cuộc thi không chỉ dành cho một nhóm nhỏ sinh viên hay giảng viên mà được thiết kế để mở rộng đến tất cả.
Ngoài cuộc thi, tôi đề xuất Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia cùng các bên liên quan xây dựng một hệ thống trung tâm đào tạo và tư vấn về năng suất tại các trường đại học. Việc chỉ dựa vào Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia hay một vài tổ chức sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của xã hội. Chúng ta cần phát triển một hệ thống đại lý - tức là các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu đóng vai trò là những đơn vị trung gian, giúp lan tỏa kiến thức và ứng dụng thực tiễn về năng suất.
Như Nhật Bản và Thái Lan đã phát triển các tổ chức năng suất. Họ không làm tất cả mọi thứ một mình, họ xây dựng các đơn vị trung gian, đào tạo họ thật tốt, sau đó để họ tự phát triển và mở rộng. Đó chính là chìa khóa thành công.
Chúng ta không thể chỉ dựa vào nguồn lực hiện có mà cần mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng thông qua đào tạo chuyên sâu và các chứng chỉ uy tín. Do đó, không chỉ dừng lại ở việc nâng cao nhận thức về năng suất trong môi trường học thuật, chúng ta cần có mục tiêu lớn hơn là đào tạo và phát triển 10.000 Trưởng phòng chất lượng cho doanh nghiệp trong nước. Tại sao không tổ chức các bài kiểm tra, giống như thi IELTS để đánh giá năng lực về quản trị năng suất? Nếu chúng ta có một hệ thống bài kiểm tra chặt chẽ, một quy trình tổ chức khoa học, hoàn toàn có thể tạo ra đội ngũ chuyên gia chất lượng cao, phục vụ cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam.
Mô hình này đã được chứng minh hiệu quả tại nhiều quốc gia phát triển và nếu áp dụng thành công tại Việt Nam sẽ giúp thay đổi diện mạo của nền kinh tế.
Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
Thanh Hiền – Duy Trinh (thực hiện)








