Thực trạng và một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất, kinh doanh bia ở Việt Nam

author 19:59 13/01/2025

(VietQ.vn) - Bài viết đánh giá thực trạng sản xuất và kinh doanh mặt hàng bia của các doanh nghiệp ở Việt Nam những năm gần đây, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong chính sách quản lý hoạt động sản xuất và kinh doanh bia, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh mặt hàng bia ở Việt Nam thời gian tới.

Ngành sản xuất và kinh doanh rượu, bia thuộc lĩnh vực kinh doanh đồ uống (bia, rượu, nước giải khát), một ngành kinh tế - kỹ thuật đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, thúc đẩy các ngành du lịch, dịch vụ, thương mại phát triển, đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước với khoảng 60 nghìn tỷ đồng mỗi năm, tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong chuỗi cung ứng.

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bia, rượu, nước giải khát Việt Nam (VBA), mức tiêu thụ bia của Việt Nam năm 2022 chiếm 2,2% thị trường toàn cầu, ở mức trung bình 3,8 triệu lít bia mỗi năm (bình quân 1 người Việt Nam trên 15 tuổi uống khoảng 170 lít bia/năm). Nước ta là quốc gia tiêu thụ bia lớn thứ ba khu vực châu Á, chỉ sau Trung Quốc, Nhật Bản và trở thành nước đứng đầu trong khu vực ASEAN về tiêu thụ bia.

Bài viết đánh giá thực trạng sản xuất và kinh doanh mặt hàng bia của các doanh nghiệp ở Việt Nam những năm gần đây, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong chính sách quản lý hoạt động sản xuất và kinh doanh bia, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh mặt hàng bia ở Việt Nam thời gian tới.

Sản xuất và kinh doanh rượu, bia thuộc lĩnh vực kinh doanh đồ uống đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. (Ảnh minh họa)

1. Thực trạng hoạt động sản xuất và kinh doanh bia ở Việt Nam

1.1. Thực trạng sản xuất bia ở Việt Nam 

Ngành sản xuất bia ở Việt Nam chỉ phát triển từ năm 1991 khi nhà nước có chính sách mở cửa nền kinh tế. Các nhà máy bia Sài Gòn, Hà Nội được đầu tư, đồng thời nhiều hãng bia lớn trên thế giới đã thâm nhập vào Việt Nam như bia Heineken, Carlsberg..., giúp cung cấp đủ sản lượng tiêu dùng trong nước và đẩy lùi vấn nạn bia nhập lậu từ nước ngoài.

Hiện nay, các doanh nghiệp có xu hướng sản xuất những sản phẩm có nồng độ cồn thấp, sản phẩm bia không cồn, nước trái cây lên men..., đồng thời tăng cường đầu tư nghiên cứu và cho ra thị trường các sản phẩm mới, mẫu mã đa dạng, phong phú, đáp ứng thị hiếu và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ năm 2015 đến nay, sản xuất và cung ứng bia trên thị trường Việt Nam có thể chia ra 2 giai đoạn, từ 2015-2019 và từ 2020 đến nay. Trong giai đoạn 2015-2019, sản xuất bia tăng với tốc độ khá nhanh, từ 3,5 tỷ lít năm 2015 và đạt đỉnh cao 4,59 tỷ lít vào năm 2019 trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát và trước khi Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực thi hành, mức tăng sản lượng bình quân năm giai đoạn 2015-2019 đạt 7,1%.

Bắt đầu từ năm 2020, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 và tác động của việc thực thi Nghị định 100/2019/NĐ-CP, hoạt động sản xuất bia gặp nhiều khó khăn và đã giảm tới 14,75% so với năm 2019, đà giảm mạnh tiếp tục qua năm 2021 trước khi có sự hồi phục tới 2 chữ số vào năm 2022 do được nâng đỡ bởi điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi và đại dịch Covid-19 được kiểm soát trên phạm vi toàn cầu. Sản xuất bia của Việt Nam đã tăng mạnh và đạt đỉnh cao vào quý III/2022 nhưng bắt đầu suy giảm trở lại từ quý IV năm 2022 cho tới cuối năm 2023. Theo Bộ Công Thương, tính chung 11 tháng đầu năm 2023, sản lượng bia các loại đạt 4.315,0 triệu lít, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2022.

Theo Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA), ngành bia chịu nhiều ảnh hưởng từ quy định xử phạt nồng độ cồn và kinh tế khó khăn. 8 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành đồ uống chỉ tăng 0,5%, trong khi ngành thực phẩm tăng mạnh tới 7,3%; sản lượng ngành bia giảm gần 4% so với cùng kỳ năm 2023, do đó ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước, tác động đến lực lượng lao động và các ngành phụ trợ như cung cấp nguyên vật liệu và logistics.

Bảng 1. Sản lượng bia của Việt Nam giai đoạn 2015-2023 

Nguồn: Tổng cục Thống kê (*) số liệu của 11 tháng đầu năm 2023 - Thống kê Sản phẩm sản xuất chủ yếu, Bộ Công Thương

Hàng năm, ngành đồ uống đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước với sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp lớn như Công ty TNHH nhà máy bia Heineken Việt Nam (xếp thứ 14 trong danh sách 1.000 doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất năm 2021), Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Hà Nội (Habeco), Công ty TNHH bia Carlsberg Việt Nam, Sapporo Breweries...

Các nhà máy sản xuất, kinh doanh đồ uống có mặt ở 51 tỉnh, thành và đóng góp một phần cho ngân sách của các địa phương. Ngành sản xuất bia đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước, phục vụ cho xuất khẩu, sản phẩm có sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Bên cạnh đó, ngành đồ uống nói chung và sản xuất bia nói riêng còn tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong chuỗi cung ứng từ bao bì, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, bán buôn, bán lẻ, đến các nhà cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất.

Biểu đồ 1. Thị phần bia tại Việt Nam giai đoạn 2018-2023 (%)

Nguồn: Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA) 

1.2. Thực trạng kinh doanh bia ở Việt Nam

Về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành: 

Theo số liệu từ nguồn Statista Market Insights, doanh thu ngành bia Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2014-2019 nhờ sự tăng nhanh nhu cầu tiêu thụ. Doanh thu toàn ngành đã tăng đều qua các năm, từ 5,63 tỷ USD năm 2014 lên 7,6 tỷ USD vào năm 2019 với mức tăng trưởng bình quân 6,2%/năm. Tuy vậy trong 2 năm 2020 và 2021, doanh thu toàn ngành đã giảm, năm 2020 chỉ còn 5,71 tỷ USD và tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất vào năm 2021 với chỉ 4,64 tỷ USD do tác động của nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là do ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19 và từ quy định của Chính phủ về kiểm soát nồng độ cồn đối với lái xe theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Trong giai đoạn 2021-2023, lợi nhuận bình quân toàn ngành liên tục giảm: năm 2021 giảm 12%, năm 2022 giảm 6%, năm 2023 giảm 10% so với năm 2022. Thu ngân sách toàn ngành giảm bình quân 10%/năm trong giai đoạn này.

Biểu đồ 2. Doanh thu ngành bia Việt Nam giai đoạn 2014-2023, dự báo đến năm 2026 (Tỷ USD)

Nguồn: Statista Market Insights, update tháng 8/2023

Trong nhiều năm qua, thị trường bia Việt Nam được thống trị bởi nhóm 4 doanh nghiệp lớn, đó là Công ty TNHH nhà máy bia Heineken Việt Nam, Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Công ty TNHH bia Carlsberg Việt Nam và Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Hà Nội (Habeco), chiếm tới 94,4% thị phần ngành bia Việt Nam năm 2021, trong đó riêng Heineken chiếm 44,4%; Sabeco chiếm 33,9%; Carlsberg chiếm 8,7% và Habeco chiếm 7,4% thị phần.

Năm 2022, trong số 4 doanh nghiệp lớn chiếm thị phần lớn nhất của ngành thì 2 doanh nghiệp trong nước đạt kết quả kinh doanh khá tốt khi Sabeco ghi nhận doanh thu gần 35.000 tỷ đồng (tăng 33% so với năm 2021) và Habeco có doanh thu thuần đạt 8.398 tỷ đồng (tăng 21% so với năm 2021). Tuy nhiên, giai đoạn đầu năm 2023 lại chứng kiến sự sụt giảm về doanh thu của 2 doanh nghiệp trên, khi doanh thu thuần quý I/2023 của Sabeco chỉ đạt 6.213 tỷ đồng (giảm 15% so với cùng kỳ năm 2022) và Habeco cũng gặp phải tình trạng suy giảm kết quả kinh doanh khi doanh thu chỉ đạt 1.172 tỷ đồng (giảm 14% so với cùng kỳ năm 2022).

Lý giải về sự sụt giảm doanh thu giai đoạn đầu năm 2023 của 2 doanh nghiệp này, bên cạnh những vấn đề đặc thù và khó khăn trong cạnh tranh giành thị phần, kết quả kinh doanh của Sabeco và Habeco có điểm chung là cùng chịu tác động từ chính sách kiểm soát chặt chẽ vi phạm về nồng độ cồn theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Ngoài ra, thói quen chi tiêu của người Việt Nam có xu hướng giảm dần trước những khó khăn hiện tại của nền kinh tế cũng là một nguyên nhân tác động đến sự sụt giảm về kết quả kinh doanh này.

Bộ Công Thương dự báo năm 2024, doanh thu của ngành tăng khoảng 10 - 12%, nhưng đây là mức tăng so với mức rất thấp của năm 2023, còn nếu so với trước dịch Covid-19 thì vẫn đang bị suy giảm. Năm 2024, hàng tồn kho ngành đồ uống tiếp tục tăng, riêng 6 tháng đầu năm 2024 tăng 29% so với cùng kỳ năm 2023. Các doanh nghiệp lớn trong ngành đều bị giảm doanh thu, lợi nhuận...

Quy mô ngành đồ uống khoảng 27 tỷ USD doanh thu, trong đó đồ uống không cồn đạt doanh thu 10,22 tỷ USD chiếm 38%, đồ uống có cồn gần 17 tỷ USD, chiếm 62%. Ngành này đã đóng góp ngân sách nhà nước của ngành khoảng 60 nghìn tỷ đồng/năm (riêng thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm trên 40 nghìn tỷ đồng/năm), trong đó ngành bia chiếm 75%.

Về tình hình cạnh tranh trên thị trường: 

Với nhu cầu tiêu thụ tăng cao và tâm lý chuộng đồ nhập khẩu hơn hàng nội địa, việc nhiều doanh nghiệp đã bước chân vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu bia khiến cạnh tranh trên thị trường hết sức khốc liệt. Các doanh nghiệp ngoại, các hãng bia lớn trên thế giới đã áp dụng Đề án marketing hiệu quả và mang tính toàn cầu để tăng thị phần, đồng thời từng bước mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư xây dựng nhà máy tại Việt Nam, do đó tạo áp lực cạnh tranh gay gắt lên các doanh nghiệp sản xuất bia trong nước. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh thông qua tin đồn thất thiệt làm ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của nhiều doanh nghiệp.

Trước tình hình đó, các doanh nghiệp bia trong nước nếu không có những đề án, chiến lược marketing bài bản, đầu tư trang thiết bị, công nghệ, đổi mới về mẫu mã, bao bì và chất lượng sản phẩm, tập trung làm tốt việc xây dựng thương hiệu và hệ thống phân phối ngay từ đầu, định vị đúng phân khúc khách hàng, việc thu hẹp thị phần của các hãng bia nội là khó tránh khỏi, khó có thể cạnh tranh sòng phẳng về giá cả và chất lượng với bia ngoại và mất dần ưu thế ngay trên sân nhà.

2. Thực trạng chính sách quản lý hoạt động sản xuất và kinh doanh bia ở Việt Nam

Một số kết quả đạt được: 

Ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ và các Bộ ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng bia. Theo danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện ban hành kèm theo Nghị định số 19/VBHN-BCT ngày 9/5/2014 và danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định trong Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17/6/2020, kinh doanh bia không phải là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện và cũng không thuộc mặt hàng kinh doanh bị cấm. Tuy nhiên, cơ sở sản xuất, kinh doanh bia cần tuân thủ Thông tư số 53/2014/TT BCT của Bộ Công Thương ngày 18/12/2014 quy định về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh bia, theo đó cơ sở sản xuất bia cần làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và cơ sở kinh doanh bia cần làm thủ tục công bố sản phẩm bia nhập khẩu từ nước ngoài.

Mới đây ngày 14/6/2019, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 đã ban hành Luật số 44/2019/QH14 về Phòng, chống tác hại của rượu, bia; kèm theo đó là Nghị định số 24/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/2/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia.

Bên cạnh các quy định quản lý nhà nước về thương mại nói chung, cũng như quy định kiểm tra về chất lượng và an toàn thực phẩm, hoạt động sản xuất, kinh doanh bia còn phải tuân thủ quy hoạch phát triển ngành bia được nêu trong Quyết định số 3690/QĐ-BCT của Bộ Công Thương ngày 12/9/2016 phê duyệt quy hoạch phát triển ngành bia, rượu, nước giải khát Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, cũng như tuân thủ các quy định về thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hiện nay, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng bia là 35%, thuế VAT là 10% và thuế tiêu thụ đặc biệt lên tới 65% (áp dụng từ 1/1/2018 đến nay theo Luật số 70/2014/QH13 ngày 26/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt). Trong trường hợp nhập khẩu từ nước có ký kết hiệp định thương mại tự do với Việt Nam có thể được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt nếu đáp ứng đủ các điều kiện mà hiệp định đưa ra.

Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ mặt hàng bia, tập trung vào việc: Quản lý về chất lượng và an toàn thực phẩm bia sản xuất và nhập khẩu; quy định về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc thiết bị của doanh nghiệp sản xuất; quản lý sản xuất, kinh doanh và phòng, chống tác hại rượu, bia, thuốc lá; quản lý thương nhân, tổ chức mạng lưới phân phối bán buôn, bán lẻ; quản lý hoạt động phân phối bia nhập khẩu (địa điểm kinh doanh, việc quảng cáo, khuyến mại, điều kiện bán bia nhập khẩu theo hình thức thương mại điện tử, chính sách về điều kiện kinh doanh và phân phối bia nhập khẩu); chính sách thuế, phí đối với sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu bia (thuế nhập khẩu nguyên liệu, thành phẩm, thuế tiêu thụ đặc biệt, VAT, thu nhập doanh nghiệp…); quản lý nhập khẩu và chống buôn lậu; quản lý thị trường, xử lý hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại.

Một số hạn chế chính sách: 

Bên cạnh kết quả đạt được, việc ban hành và áp dụng các chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bia ở Việt Nam còn gặp phải một số vấn đề liên quan đến tính đồng bộ, thống nhất của các quy định pháp lý, hiệu quả giám sát và thực thi chính sách trên thực tế chưa cao.

Thứ nhất, các quy định quản lý thương nhân và điều kiện kinh doanh nhập khẩu bia chưa chặt chẽ, chưa hướng tới việc giảm nguồn cung và giảm mức tiêu thụ bia nói chung và bia nhập khẩu nói riêng, chưa có giải pháp hữu hiệu để hạn chế mức tăng hoặc giảm số lượng và quy mô thương nhân kinh doanh bia nhập khẩu theo đúng tinh thần của Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia số 44/2019/QH14 ngày 14/6/2019.

Thứ hai, quản lý nhà nước đối với sản xuất, kinh doanh bia chưa gắn với những quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của các thương nhân, doanh nghiệp về hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia, nhất là các quy định cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm, chế tài xử phạt vi phạm, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cộng đồng trong phòng, chống tác hại của rượu, bia.

Thứ ba, công tác kiểm tra nhà nước về chất lượng và an toàn thực phẩm đối với mặt hàng bia sản xuất và nhập khẩu còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, dẫn đến tình trạng một số sản phẩm bia sản xuất và nhập khẩu được kinh doanh, tiêu thụ tại Việt Nam chưa bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa và an toàn thực phẩm theo quy định của Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019.

Các luật và nghị định có liên quan đến quản lý nhà nước về chất lượng và an toàn thực phẩm đối với mặt hàng bia sản xuất và bia nhập khẩu đều được ban hành khá lâu, chưa được rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Hiện nay mới có Thông tư số 53/2014/TT-BCT của Bộ Công Thương ban hành ngày 18/12/2014 quy định về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh bia.

Thứ tư, chính sách thuế, phí áp dụng đối với bia nhập khẩu chưa phù hợp, cách thức tính thuế, căn cứ và giá tính thuế dựa trên giá trị phù hợp với quy luật kinh tế học đôi khi còn chưa thống nhất giữa các văn bản pháp lý. Mặc dù Nghị định số100/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế đã quy định: Giá tính thuế đối với hàng hóa sản xuất trong nước, hàng hóa nhập khẩu là giá do cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu bán ra. Trường hợp giá bán của cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu bán ra không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường thì cơ quan thuế thực hiện ấn định thuế theo quy định của Luật quản lý thuế. Tuy nhiên trên thực tế, cách xác định giá tính thuế và trị giá hải quan đối với bia nhập khẩu còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Điều đó dẫn đến mức thuế đối với bia nhập khẩu vào Việt Nam tương đối thấp, nhất là mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với bia nhập khẩu từ những quốc gia ký kết hiệp định thương mại tự do với Việt Nam, bia nhập khẩu cạnh tranh mạnh với bia sản xuất trong nước gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước.

Thứ năm, công tác quản lý hoạt động nhập khẩu, phân phối bia nhập khẩu và phối hợp xử lý hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại mặc dù đã có những nỗ lực và đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn bất cập do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh nhập khẩu bia vẫn diễn ra khá phổ biến, còn tình trạng độc quyền và cạnh tranh thiếu lành mạnh trên thị trường gây thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước.

Các vấn đề còn hạn chế và phát sinh trong thực tiễn quản lý hoạt động sản xuất và kinh doanh bia đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải có sự phân tích, đánh giá tác động, hiệu lực và sự phù hợp của các chính sách và biện pháp quản lý nhà nước, nhất là trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh trên thị trường đang hết sức khốc liệt, hoạt động sản xuất, tiêu thụ bia kém chất lượng còn diễn biến phức tạp, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, chính sách cụ thể nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh bia ở Việt Nam.

3. Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh bia ở Việt Nam

Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành bia ở Việt Nam:

Quyết định số 3690/QĐ-BCT ngày 12/9/2016 của Bộ Công Thương phê duyệt quy hoạch phát triển ngành bia, rượu, nước giải khát Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 đã nêu rõ quan điểm phát triển: Phát triển ngành công nghiệp bia, rượu, nước giải khát trên cơ sở cân đối sản xuất và tiêu thụ giữa các vùng trên cả nước, đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, xã hội và doanh nghiệp; đồng thời ngăn ngừa lạm dụng đồ uống có cồn; 

Phát triển ngành trên cơ sở áp dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến; không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm; nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới có chất lượng cao và đa dạng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập toàn cầu; Phát triển theo hướng bền vững, chú trọng bảo đảm an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái.

Quyết định chỉ ra định hướng phát triển đối với ngành bia, đó là: Tập trung đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu; liên kết hoặc sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn; Khuyến khích sản xuất bia không cồn và các dòng bia cao cấp với giá cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục xây dựng và phát triển một số thương hiệu bia mạnh tầm quốc gia; Không khuyến khích đầu tư mới các nhà máy quy mô dưới 50 triệu lít/năm, trừ các cơ sở sản xuất bia để bán tiêu dùng tại chỗ.

Đề xuất một số giải pháp từ phía Nhà nước nhằm tăng cường quản lý đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh bia:

Trước hết, cần đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, xây dựng mới chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh bia.

Bên cạnh đó, cần thực hiện nhóm giải pháp gắn với hoạt động sản xuất bia, cụ thể: Tăng cường đầu tư tài chính, hợp tác, liên doanh đầu tư sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, có thương hiệu và cạnh tranh tốt trên thị trường; Giải pháp quản lý ngành, tăng cường quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm đối với mặt hàng bia được tiêu thụ trên thị trường; Nghiên cứu đề xuất và ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo thông lệ quốc tế đối với mặt hàng bia; Giải pháp về khoa học - công nghệ, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ sản xuất theo quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc tế; Xây dựng và giám sát thực hiện các quy định về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc thiết bị của doanh nghiệp sản xuất bia. 

Đồng thời, cần thực hiện nhóm giải pháp gắn với hoạt động kinh doanh bia, cụ thể: Có chính sách phát triển và mở rộng thị trường, tăng cường quản lý thương nhân và xúc tiến thương mại; Nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách thuế, phí đối với sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu bia phù hợp với đặc thù kinh tế - xã hội của Việt Nam và hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng; Giải pháp tăng cường quản lý nhập khẩu và chống buôn lậu, tăng cường quản lý thị trường nội địa, xử lý hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại và cạnh tranh không lành mạnh.

TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công thương)

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Công Thương (2014). Thông tư số 53/2014/TT-BCT ngày 18/12/2014 quy định điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh bia.

2. Chính phủ (2015). Nghị định số108/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.

3. Chính phủ (2016). Nghị định số100/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế.

4. Bộ Công Thương (2016). Quyết định số 3690/QĐ-BCT ngày 12/9/2016 phê duyệt quy hoạch phát triển ngành bia, rượu, nước giải khát Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.

5. Chính phủ (2019). Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

6. Quốc hội (2019). Luật số 44/2019/QH14: Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia, ban hành ngày 14/6/2019.

7. Chính phủ (2020). Nghị định số 24/2020/NĐ-CP ngày 24/2/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia.

8. Chính phủ (2022). Nghị định số 49/2022/NĐ-CP ngày 29/7/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 12/2015/NĐ-CP, Nghị định số 100/2016/NĐ-CP và Nghị định số 146/2017/NĐ-CP.

9. Văn phòng quốc hội (2022). Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 08/VBHN-VPQH ngày 25/1/2022.

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang