Ứng dụng công nghệ số trong quản lý: Bước đột phá của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
(VietQ.vn) - Trong bối cảnh kinh tế số phát triển mạnh mẽ, chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng phức tạp và hành vi tiêu dùng chuyển dịch nhanh sang môi trường trực tuyến, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo phương thức truyền thống đang bộc lộ nhiều hạn chế. Việc ứng dụng công nghệ số, thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý chất lượng không chỉ là yêu cầu khách quan mà đã trở thành xu thế tất yếu, được luật hóa trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa sửa đổi năm 2025.
Thị trường tiêu dùng Tết 2026: Siêu thị giảm giá, hàng Việt lên ngôi
Nữ doanh nhân, Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Thảo nhận danh hiệu Anh hùng Lao động
Hải Phòng nâng cao năng lực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, đảm bảo sự tin cậy và minh bạch
Thời đại số - với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, thương mại điện tử (TMĐT) và mạng xã hội đã tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức trong cuộc chiến chống hàng giả. Một mặt, các nền tảng số giúp doanh nghiệp mở rộng kênh phân phối, tiếp cận người tiêu dùng nhanh hơn; mặt khác, chính môi trường trực tuyến lại đang trở thành "mảnh đất màu mỡ" cho hàng giả, hàng nhái phát triển tinh vi, khó kiểm soát.
Đặc biệt, sự bùng nổ của các sàn TMĐT và mạng xã hội đã làm gia tăng hiện tượng "tiểu thương số" dẫn đến hàng giả có thể được rao bán ẩn danh, qua các tài khoản ảo, không địa chỉ rõ ràng, khiến việc truy vết và xử lý gặp nhiều trở ngại. Ngoài ra, công nghệ số còn bị lợi dụng để sản xuất bao bì, tem chống giả, mã QR… giống thật đến mức đánh lừa cả người tiêu dùng và cơ quan chức năng.
Thực trạng trên đặt ra thách thức không nhỏ đối với hệ thống pháp luật Việt Nam, đòi hỏi hệ thống pháp luật cần được cập nhật kịp thời theo diễn biến của hàng hoá trong môi trường số hóa, đồng thời tạo khuôn khổ cho việc ứng dụng công nghệ vào phòng, chống hiệu quả hơn.
Nhức nhối hàng giả trên nền tảng số
Những năm gần đây, tình trạng buôn bán hàng giả trên không gian số tại Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi và khó kiểm soát. Lợi dụng đặc điểm ẩn danh, khó kiểm chứng nguồn gốc trên các nền tảng mạng xã hội và sàn TMĐT như Facebook, TikTok, Shopee, Lazada…, các đối tượng đã tổ chức sản xuất và phân phối hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, không rõ nguồn gốc với quy mô lớn.
Thực tế ghi nhận thời gian qua cho thấy, hàng giả xuất hiện đa dạng, từ mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, thời trang, cho đến thuốc, sữa bột…
Thực trạng này không chỉ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và gây thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp chân chính mà còn tiềm ẩn rủi ro đối với sức khỏe và sự an toàn của người tiêu dùng, đặc biệt khi các sản phẩm giả liên quan đến thực phẩm và dược phẩm, điển hình như: Quang Linh Vlogs (Phạm Quang Linh), Hằng Du Mục (Nguyễn Thị Thái Hằng) bán Kẹo rau củ Kera thu lợi bất chính hàng chục tỷ đồng…
Theo lãnh đạo Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương), nếu như trong thương mại truyền thống, người bán có địa điểm rõ ràng, hàng hóa dễ kiểm chứng và giao dịch minh bạch thì môi trường TMĐT lại tiềm ẩn nhiều rủi ro do tính ẩn danh cao. Người tiêu dùng khó xác định danh tính người bán, nguồn gốc hàng hóa, việc truy vết, xác minh khi xảy ra vi phạm vì thế cũng trở nên phức tạp hơn.
Trên các sàn thương mại điện tử và mạng xã hội, việc kiểm soát chất lượng sản phẩm vẫn là thách thức lớn. Sự thiếu minh bạch này đã tạo kẽ hở để hàng giả, hàng nhái, hàng lậu và hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ len lỏi vào thị trường, gây rủi ro trực tiếp cho người tiêu dùng.
Không chỉ dừng lại ở giao dịch trong nước, nhiều hoạt động mua bán còn diễn ra trên các nền tảng xuyên biên giới, được vận hành theo quy định của doanh nghiệp nước ngoài. Trong những trường hợp này, ngay cả khi phát hiện dấu hiệu vi phạm, cơ quan chức năng cũng gặp nhiều khó khăn trong xác minh và xử lý, nhất là khi các đối tượng liên quan không hợp tác.
Để giải quyết những vấn đề này, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã và đang nỗ lực xây dựng khung pháp lý vững chắc và đồng bộ, tạo cơ hội để bứt phá trong chuyển đổi số. Trong đó, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (sửa đổi) năm 2025 có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 là bước đột phá quan trọng trong quản lý rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Tư duy quản lý mới
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định chặt chẽ hơn việc công khai thông tin sản phẩm trên nền tảng số (nhãn điện tử, hộ chiếu số), yêu cầu sàn TMĐT xác minh thông tin, phối hợp thu hồi hàng kém chất lượng, và áp dụng xử lý vi phạm nghiêm khắc cho hành vi kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng, đặc biệt trên không gian số, nhằm bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy kinh doanh minh bạch.
Đặc biệt, Luật cũng thể hiện rõ tư duy quản lý mới khi lần đầu tiên bổ sung các quy định mang tính nền tảng về ứng dụng công nghệ số trong quản lý chất lượng.
Cụ thể, tại Điều 6đ. Ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa nêu rõ:
1) Ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa để bảo đảm minh bạch thông tin, truy xuất nguồn gốc, kết nối và chia sẻ dữ liệu trong toàn bộ vòng đời sản phẩm, hàng hóa, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và hội nhập quốc tế.
2) Khuyến khích ứng dụng công nghệ trong các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, kiểm tra, giám sát chất lượng và quản lý thông tin sản phẩm, hàng hóa, bao gồm:
a) Quản lý chuỗi cung ứng thông qua mã số, mã vạch, truy xuất nguồn gốc, nhãn điện tử và nền tảng số;
b) Thu thập, lưu trữ, phân tích dữ liệu phục vụ kiểm tra, kiểm tra sau lưu thông trên thị trường, thanh tra, cảnh báo và xử lý vi phạm;
c) Áp dụng hộ chiếu số của sản phẩm, nhãn điện tử và thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền;
d) Ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và công nghệ số tiên tiến trong các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, kiểm tra, giám sát chất lượng và quản lý thông tin sản phẩm, hàng hóa.
3) Nhà nước có chính sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng dữ liệu và phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động ứng dụng công nghệ quy định tại Điều này.
4) Việc ứng dụng công nghệ số, nhãn điện tử, mã số, mã vạch và hệ thống truy xuất nguồn gốc phải bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu trong toàn bộ quá trình thu thập, lưu trữ, xử lý và chia sẻ dữ liệu; phải tuân thủ nguyên tắc về bảo mật thông tin, quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Luật đã bổ sung quy định rõ ràng về ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá nhằm bảo đảm minh bạch thông tin; truy xuất nguồn gốc điện tử; kết nối và chia sẻ dữ liệu xuyên suốt vòng đời sản phẩm; phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và hội nhập quốc tế. Đây là điểm rất quan trọng nhấn mạnh chuyển đổi số trong quản lý chất lượng (gắn với hạ tầng dữ liệu, kết nối hệ thống thông tin xuyên ngành).
Luật cũng xác lập khung pháp lý về hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) - hệ sinh thái bao gồm tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, kiểm tra và xây dựng chính sách. Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng hạ tầng chất lượng quốc gia trên nền tảng công nghệ số và AI, bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan kiểm tra chất lượng, hải quan, truy xuất nguồn gốc, phản ánh người tiêu dùng và cảnh báo quốc tế để nâng cao năng lực giám sát và cảnh báo sớm.
Đáng chú ý, tại Điều 34b. Bảo đảm chất lượng hàng hoá kinh doanh trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử nêu rõ: Hàng hoá mua bán trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử phải tuân thủ quy định về chất lượng tương tự hàng hoá trên thị trường truyền thống.
Cụ thể, tổ chức, cá nhân bán hàng phải cung cấp đầy đủ thông tin chất lượng sản phẩm, hàng hoá trên nền tảng số, gồm: Tên hàng hoá, xuất xứ; dấu hợp chuẩn, hợp quy; hướng dẫn sử dụng và cảnh báo an toàn; thông tin khác theo quy định pháp luật...
Chủ nền tảng số có trách nhiệm: Yêu cầu người bán cung cấp thông tin chính xác; thiết lập hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh/ khiếu nại của người tiêu dùng; phối hợp cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xử lý vi phạm; tuân thủ quy định pháp luật về giao dịch điện tử, thương mại điện tử.

Lực lượng QLTT Hà Nội bắt giữ gần 30.000 vòng bi giả mạo nhãn hiệu SKF tại Công ty TNHH Thương mại Minh Ngọc Việt Nam.
Quy định này thể hiện sự chuyển đổi số trong việc quản lý chất lượng sản phẩm qua thương mại điện tử và nền tảng số, đồng thời tạo khung pháp lý cho hệ thống dữ liệu chất lượng sản phẩm trực tuyến. Điều này sẽ góp phần ngăn chặn những kẽ hở vi phạm trên nền tảng số hiện nay.
Xu thế tất yếu
Một điểm cần nói thêm, trước đây, hoạt động quản lý chất lượng chủ yếu dựa trên hồ sơ giấy, kiểm tra thủ công, hậu kiểm là chính. Cách tiếp cận truyền thống này khó đáp ứng yêu cầu giám sát theo thời gian thực, thiếu khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các khâu sản xuất - lưu thông - tiêu dùng, đặc biệt trong môi trường thương mại điện tử và kinh tế đa nền tảng. Trong khi đó, người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi cao hơn về tính minh bạch thông tin, khả năng truy xuất nguồn gốc, độ an toàn và trách nhiệm của doanh nghiệp.
Các thị trường xuất khẩu cũng đặt ra yêu cầu khắt khe về “hộ chiếu sản phẩm”, dữ liệu vòng đời, truy xuất số và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế. Đây chính là sức ép buộc hoạt động quản lý chất lượng phải đổi mới, chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang mô hình quản lý dựa trên dữ liệu và công nghệ số.
Ứng dụng công nghệ số cho phép chuyển đổi toàn diện phương thức quản lý chất lượng từ bị động sang chủ động. Thông qua các nền tảng dữ liệu, cơ quan quản lý có thể theo dõi tình trạng tuân thủ chất lượng theo thời gian thực, phân tích rủi ro, cảnh báo sớm sản phẩm không bảo đảm an toàn, thay vì chỉ xử lý sau khi vi phạm đã xảy ra.
Theo đánh giá của các chuyên gia, chuyển đổi số trong quản lý chất lượng giúp kiểm soát tốt hơn quy trình sản xuất, giảm chi phí tuân thủ, nâng cao năng suất và khả năng đáp ứng tiêu chuẩn trong nước, quốc tế cho doanh nghiệp. Việc số hóa thông tin sản phẩm, kết nối hệ thống truy xuất nguồn gốc không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn trở thành lợi thế cạnh tranh, gia tăng niềm tin của người tiêu dùng.
Về phía người tiêu dùng, công nghệ số mang lại khả năng tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác, dễ kiểm chứng; từ đó nâng cao vai trò giám sát xã hội đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Có thể khẳng định, chuyển đổi số trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đang trở thành con đường tất yếu để thích ứng với bối cảnh phát triển mới. Tuy nhiên, để quy định của Luật đi vào cuộc sống, cần sự vào cuộc đồng bộ của cơ quan quản lý, doanh nghiệp và tổ chức đánh giá sự phù hợp trong việc xây dựng hạ tầng dữ liệu, hoàn thiện hệ thống thông tin, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức xã hội. Trong dài hạn, quản lý chất lượng dựa trên công nghệ số sẽ góp phần hình thành hệ sinh thái chất lượng minh bạch, hiện đại, thúc đẩy sản xuất – tiêu dùng bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Luật sư Nguyễn Văn Hùng, Đoàn Luật sư TP.Hà Nội phân tích, việc xây dựng các công cụ số để kiểm soát hàng hoá trong quá trình lưu thông giúp người tiêu dùng nhanh chóng nhận diện được hàng chính hãng. Việc phân biệt đâu là hàng thật chính là cách thức trực tiếp nhất để chống hàng giả, hàng nhái trên nền tảng số. Đặc biệt, khi xây dựng được hệ thống quản lý hàng hoá và chống hàng giả nền tảng số, số liệu được ghi nhận liên tục trong quá trình vận chuyển và giao dịch với khách hàng cũng sẽ là căn cứ giúp người tiêu dùng tin tưởng vào chất lượng sản phẩm khi gặp phải “thông tin xấu” không chính xác về sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp.
Hà My









