Xuất khẩu nông sản sang EU, làm sao đảm bảo yêu cầu về xuất xứ?

author 06:26 10/11/2020

(VietQ.vn) - Hiệp định EVFTA được ký kết mang lại nhiều cơ hội xuất khẩu nông sản Việt Nam ra nước ngoài, tuy nhiên, các doanh nghiệp cần nắm rõ quy định về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nêu trong hiệp định.

Theo nhận định của chuyên gia, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU (EVFTA) thực thi đã mở ra nhiều cơ hội cho nông sản Việt liên kết sâu rộng vào thị trường lớn. Tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần tận dụng ưu đãi thuế quan thông qua quy tắc xuất xứ hàng hóa… để làm chủ “sân chơi” trong EVFTA.

Liên quan tới vấn đề này, bà Nguyễn Thị Mai Anh, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Thương mại Du lịch Hà Nội (HPA) cho biết, EVFTA đã chính thức có hiệu lực được gần 4 tháng. Một số doanh nghiệp đã được hưởng những lợi ích đầu tiên từ EVFTA. Tuy nhiên, vẫn còn phần lớn doanh nghiệp chưa nhận được cơ hội cụ thể nào từ EVFTA cho mình.

Theo bà Mai Anh, nguyên nhân một mặt do văn kiện EVFTA rất phức tạp, để đọc, hiểu được nội dung và biết cách tận dụng cam kết EVFTA là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp. Mặt khác, việc thực hiện hóa các cơ hội EVFTA đòi hỏi những hành động cụ thể, thích hợp của các cơ quan Nhà nước và từng doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp.

Bà Trịnh Thị Thu Hiền, Trưởng phòng Xuất xứ hàng hóa, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay, đối với mặt hàng nông sản được phân thành 2 loại hàng hóa: Có xuất xứ thuần túy (cây trồng, sản phẩm cây trồng được trồng/thu hoạch tại nước thành viên). Ví dụ, cà phê trồng tại Đắk Lắk được coi là sản phẩm có xuất xứ thuần túy của Việt Nam và khi xuất khẩu sang EU sẽ được hưởng ưu đãi 0% đối với mặt hàng này. Nếu có giống cà phê Thái Lan trồng tại Việt Nam thì sản phẩm đó cũng được coi là sản phẩm xuất xứ thuần túy…

Đối với hàng hóa có xuất xứ không thuần túy: Để được hưởng ưu đãi thuế quan cần đáp ứng yêu cầu về tiêu chí chuyển đổi cơ bản; tiêu chí về hạn mức nguyên liệu; tiêu chí công đoạn gia công, chế biến. Lấy ví dụ cụ thể về vấn đề này, bà Hiền cho hay, Bỉ và Thụy Sỹ nổi tiếng về sản phẩm socola, nhưng nguyên liệu sản xuất là cacao chủ yếu nhập khẩu từ châu Phi. Tuy nhiên, do 2 quốc gia này làm chuyển đổi cơ bản bản chất hàng hóa thành kẹo socola, do đó, đáp ứng tiêu chí chuyển đổi cơ bản nên vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan.

Ảnh minh họa 

Về tiêu chí hạn mức nguyên liệu, bà Hiền lấy ví dụ, đối với cà phê hòa tan, nguyên liệu sẽ có cà phê, sữa…, nếu doanh nghiệp sử dụng 100% nguyên liệu sữa từ Vinamilk thì sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan, nhưng nếu sử dụng sản phẩm sữa, đường từ nguồn nhập khẩu thì chỉ được tối đa 20%.

Bà Trịnh Thị Thu Hiền cho biết, doanh nghiệp có thể mang hồ sơ đến tổ chức và đề nghị cấp giấy CO, hoặc tự chứng nhận xuất xứ. Hai hệ thống này đang tồn tại song song nhưng nó có những điều kiện ràng buộc riêng.

Cụ thể, đối với hàng hóa từ 6.000 Euro trở xuống sẽ được tự chứng nhận xuất xứ, việc này rất phù hợp với hàng nông sản, trong đó có hàng mẫu để gửi đi triển lãm… Còn đối với hàng hóa từ 6.000 Euro trở lên, các doanh nghiệp cần đến các cơ quan, tổ chức được ủy quyền cấp mẫu CO (mẫu CO Eur.1) để được cấp giấy chứng nhận xuất xứ.

CO là chứng từ thương mại quốc tế, do đó phải được viết bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tiếng Việt không dấu thay cho tiếng Anh là vấn đề hay gặp phải ở các doanh nghiệp Việt khi xuất khẩu. “Đây là những điểm chúng tôi lưu ý đi, lưu ý lại đối với các doanh nghiệp trong quá trình xuất khẩu hàng không chỉ sang EU mà còn sang các nước ASEAN khác”, bà Hiền nói.

EVFTA cũng giống như các FTA khác cho phép mức độ linh hoạt nhất định đối với hàng hóa, không đáp ứng hàng hóa hoàn toàn nhưng vẫn được coi là có xuất xứ. Việc này được áp dụng cho các đơn vị làm sản phẩm chế biến. Ví dụ, nếu chúng ta xuất khẩu bánh đa nem đi EU, từ 100 kg để làm ra bánh đa nem đó được phép áp dụng linh hoạt 10% nguyên liệu của nước khác. Tuy nhiên, đối với sản phẩm cuối cùng và sản phẩm có xuất xứ thuần túy thì sẽ không được áp dụng linh hoạt.

Về những hỗ trợ của Bộ Công Thương với doanh nghiệp, bà Hiền cho biết, Bộ Công Thương có Công văn 1056/XNK-XXHH cho phép lô hàng xuất khẩu vào EU tối đa trong 24 tháng (từ khi EVFTA đi vào thực thi) vẫn có thể đến gặp cơ quan, tổ chức đề nghị cấp CO đi EU và được hưởng ưu đãi thuế quan.

Bà Hiền cho biết thêm, trước khi có EVFTA, hàng hóa của Việt Nam có ưu đãi đơn phương và khi có EVFTA thì hàng hóa của chúng ta có ưu đãi song phương. Trong 2 năm đầu khi EVFTA có hiệu lực, doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu khuôn khổ áp thuế EVFTA hoặc GSP; cần lưu ý, áp dụng thuế của khuôn khổ nào ưu đãi hơn thì sử dụng chứng từ xuất xứ tương ứng của đơn vị đó…

Theo các chuyên gia, việc nắm rõ các nội dung này hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Bởi lẽ, khi đó doanh nghiệp mới có sự chuẩn bị tốt thông qua việc chủ động nâng cao năng lực sản xuất, xây dựng thương hiệu sản phẩm, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường tương đối khó tính này. Qua đó, tận dụng cơ hội vàng do EVFTA mang lại để làm chủ “sân chơi” mới EVFTA, tạo ra cú hích lớn cho xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam nói chung cũng như Hà Nội nói riêng, nhất là các sản phẩm có thế mạnh như: thủy sản, rau quả, gạo, cà phê, hồ tiêu, sản phẩm đồ gỗ…

Bảo Lâm

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang