Chồng chéo thuế và phí: Nút thắt lớn trong phát triển bền vững ngành khoáng sản

author 14:39 15/10/2025

(VietQ.vn) - Sự chồng lấn giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đang khiến chi phí doanh nghiệp đội lên cao, làm giảm sức cạnh tranh, gia tăng rủi ro pháp lý và làm méo mó động lực đầu tư vào khai thác hiệu quả, chế biến sâu.

Gánh nặng tài chính chiếm tới 40% doanh thu

Tại Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản” do VCCI và Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam tổ chức ngày 15/10, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI nhấn mạnh: ngành khai khoáng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhiều lĩnh vực công nghiệp nền tảng và là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, ông Tuấn chỉ rõ rằng các doanh nghiệp trong lĩnh vực này hiện đang phải thực hiện cùng lúc hai nghĩa vụ tài chính lớn là thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên năm 2009 và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản năm 2010, tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024.

Cả hai khoản thu đều nhằm đảm bảo Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản, song việc áp dụng đồng thời lại đang gây ra nhiều hệ lụy trong thực tiễn, làm tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh và khiến môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn. Theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay có thể chiếm tới 30–40% doanh thu, mức cao vượt trội so với thông lệ quốc tế.

Hội thảo Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản.

Trong khi đó, các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada hay Indonesia thường chỉ áp dụng một cơ chế royalty linh hoạt, kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, giúp giảm gánh nặng tài chính và khuyến khích đầu tư vào khai thác hiệu quả, chế biến sâu.

“Chính sự chồng lấn giữa hai khoản thu đang khiến chi phí doanh nghiệp tăng cao, giảm sức cạnh tranh và tạo ra rủi ro pháp lý. Điều này đi ngược lại với định hướng phát triển bền vững ngành khoáng sản được nêu tại Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị,” ông Tuấn nhấn mạnh.

9 loại thuế và phí đang "bủa vây" doanh nghiệp

Từ góc nhìn chuyên gia, ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cao cấp về thuế, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA), nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn (Bộ Tài chính) cho biết, doanh nghiệp khai khoáng hiện đang phải thực hiện ba nhóm nghĩa vụ tài chính chính gồm nghĩa vụ về đất đai, nghĩa vụ về môi trường và nghĩa vụ về thuế, phí sản xuất kinh doanh.

Riêng về thuế, doanh nghiệp khai thác khoáng sản đang chịu tới chín loại thuế, phí và nghĩa vụ tài chính khác nhau, bao gồm tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và tiền thuê đất, thuế bảo vệ môi trường với than đá, lệ phí cấp phép hoạt động khoáng sản và phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác.

Đại diện Cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

“Thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực khai khoáng có thể lên tới 50%, trong khi các lĩnh vực khác chỉ ở mức khoảng 25%", ông Phụng cho biết. Theo ông, về hình thức và cách tính, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên gần như trùng lặp, cùng đánh vào một đối tượng nhưng doanh nghiệp lại phải thực hiện nghĩa vụ với hai cơ quan khác nhau, khiến gánh nặng tài chính bị nhân đôi.

Cụ thể, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là khoản doanh nghiệp phải trả để được khai thác tài nguyên, được quy định lần đầu tại Luật Khoáng sản 2010, hướng dẫn tại Nghị định 203/2013/NĐ-CP và sẽ chuyển sang thực hiện theo Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 từ ngày 1/7/2025, theo Nghị định 193/2025/NĐ-CP. Trong khi đó, thuế tài nguyên được thực hiện theo Luật Thuế tài nguyên năm 2009, với công thức xác định thuế phải nộp bằng sản lượng tài nguyên nhân với giá tính thuế và thuế suất. Khung thuế suất với khoáng sản kim loại hiện dao động từ 5–25%.

Ông Phụng cho rằng việc quản lý và tính toán thuế tài nguyên rất phức tạp, đặc biệt trong việc xác định sản lượng và giá tính thuế, gây khó khăn không chỉ cho doanh nghiệp mà cả cơ quan quản lý. Do đó, cần nghiên cứu, làm rõ nội hàm và phương thức quản lý để có thể thống nhất chính sách giữa hai khoản thu, vừa giảm trùng lặp, vừa tiết kiệm chi phí hành chính, đồng thời tạo động lực đầu tư và tuân thủ hiệu quả hơn.

Đại biểu tham dự hội thảo.

Cơ quan quản lý nói gì?

Đại diện Cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, về bản chất pháp lý, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là lợi ích kinh tế mà Nhà nước, với tư cách là chủ sở hữu tài sản công, nhận được khi chuyển giao quyền khai thác cho tổ chức hoặc cá nhân. Từ khi chính sách này được triển khai năm 2014 đến hết tháng 7/2025, tổng số tiền thu nộp vào ngân sách nhà nước đạt 53.511 tỷ đồng.

Tuy nhiên, đại diện Bộ cũng thừa nhận còn tồn tại một số bất cập như việc tính tiền cấp quyền dựa trên trữ lượng khoáng sản được phê duyệt không bảo đảm tính chính xác do có sai số, hay việc yêu cầu doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền trong nửa đầu thời hạn cấp phép, trong khi dự án vẫn đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, chưa phát sinh sản phẩm, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong bố trí vốn.

Để khắc phục, ngày 2/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 193/2025/NĐ-CP với nhiều điểm mới theo hướng đơn giản hóa quy trình, minh bạch và dễ giám sát hơn, trong đó quy định rõ về phương thức thu nộp, phê duyệt điều chỉnh, gia hạn nộp và xử lý số tiền sau quyết toán.

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định, cơ quan quản lý luôn sẵn sàng lắng nghe ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp và chuyên gia để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu tăng thu ngân sách với việc tạo môi trường đầu tư công bằng, minh bạch và bền vững cho ngành khoáng sản.

Thanh Hiền

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang