Chuyển đổi số trong nông nghiệp của Hungary và hàm ý chính sách cho Việt Nam

author 07:46 28/08/2022

(VietQ.vn) - Bài viết nghiên cứu về chuyển đổi số trong nông nghiệp của Hungary, từ đó đưa ra một số gợi mở cho Việt Nam.

Tóm tắt: Nông nghiệp đã trải qua nhiều cuộc cách mạng để có thể mang lại hiệu quả, sản lượng và lợi nhuận lên mức không thể đạt được trước đây. Các dự báo về thị trường trong thập kỷ tới cho thấy “Cuộc cách mạng nông nghiệp số” sẽ là sự thay đổi mới nhất có thể giúp đảm bảo nông nghiệp đáp ứng nhu cầu của dân số toàn cầu trong tương lai. Chuyển đổi số trong nông nghiệp sẽ tạo ra các hệ thống có năng suất cao, có khả năng đón đầu và thích ứng với những thay đổi như biến đổi khí hậu gây ra.

Hungary là một trong những nước có ngành nông nghiệp phát triển nhanh nhất của EU với điều kiện khí hậu thuận lợi, nguồn nước nóng sẵn có, đất đai màu mỡ và cơ sở hạ tầng kết nối với nhiều nước ở châu Âu. Bài viết sẽ nghiên cứu về chuyển đổi số trong nông nghiệp của Hungary, từ đó đưa ra một số gợi mở cho Việt Nam.

1. Cơ sở lý luận về chuyển đổi số trong nông nghiệp

1.1. Cơ sở lý luận về chuyển đổi số trong nông nghiệp

Cuộc cách mạng kỹ thuật số trong nông nghiệp dựa trên công nghệ thông tin bắt đầu từ những năm 1980. Một trong những bước đầu tiên là sự ra đời của đồng hồ đo năng suất của một công ty Mỹ tên là Massey Ferguson và lần đầu tiên có thể liên tục ghi nhận sản lượng. Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) đã có trên máy kéo vào đầu những năm 1990 nhưng độ chính xác không đủ tốt để lập bản đồ chính xác. Mục tiêu chính của việc ghi lại năng suất và sử dụng bản đồ GPS là để xác định các biến thể trong không gian và hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất như cảnh quan, độ ẩm, hàm lượng và cấu trúc của đất...

Thuật ngữ nông nghiệp chính xác cùng với máy kéo dẫn đường bằng GPS, cũng xuất hiện vào đầu những năm 1990. Các nhà sản xuất chia đất thành nhiều phần nhỏ và cố gắng trồng các loại cây ở những nơi có điều kiện cụ thể là phù hợp nhất. Mặc dù thực hành này dựa trên kinh nghiệm cá nhân tích lũy được, khá thô, độ phân giải thấp và thiếu bằng chứng khoa học, nhưng nêu bật tầm quan trọng của việc hiểu biết về lĩnh vực và các biến thể vi khí hậu.

Như vậy, gợi ý rằng việc ra quyết định phải dựa trên ba thành phần chính: thu thập dữ liệu liên quan, thu thập thông tin chi tiết thông qua phân tích, tạo và thực hiện phản ứng quản lý hiệu quả. Khái niệm chính là một thực tế thực nghiệm rằng cả đất và khí hậu đều thay đổi theo không gian và thời gian. Logic của nông nghiệp chính xác chỉ ra rằng các đầu vào sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu và nước chỉ nên được áp dụng ở những nơi và thời điểm cần thiết.

Nông nghiệp chính xác phát triển với tốc độ khác nhau về mặt địa lý. Hoa Kỳ, Canada và Australia là những nước tiên phong đầu tiên, Vương quốc Anh và Pháp là những nước đi đầu ở châu Âu, giống như Argentina và Brazil ở Nam Mỹ. Các công ty lớn có tầm nhìn xa có nhiều nguồn lực để thiết kế và quản lý thành công sự chuyển đổi này, nhưng đổi mới công nghệ luôn mở ra cánh cửa cho các dự án mới đột phá và nhanh nhẹn thử nghiệm các công cụ và giải pháp mới, sử dụng công nghệ hiện đại làm vũ khí cạnh tranh.

Một trong những yếu tố chính để xác định “kỹ thuật số” trong nông nghiệp và việc sử dụng công nghệ thường được gọi là nông nghiệp 4.0 hoặc nông nghiệp số, bao gồm việc áp dụng các công nghệ hiện đại kết hợp với internet để tái tạo lại thực tiễn nông nghiệp trên toàn cầu. Kỹ thuật số đã mang lại cho các tổ chức lớn và vừa sức mạnh để khai thác và phân tích khối lượng dữ liệu lớn nông nghiệp, điều này giúp các bên liên quan tạo ra nhiều giá trị hơn trong các quy trình và giám sát.

Dữ liệu trang trại được lấy từ sự kết hợp của nhiều nguồn, bao gồm các ứng dụng nông nghiệp dựa trên thiết bị di động, cảm biến, máy bay không người lái, máy móc và nông cụ, thiết bị robot và các thiết bị IoT khác, giúp nhà sản xuất có thể nắm bắt dữ liệu trang trại quan trọng liên tục. Dữ liệu này khi được xử lý với thông tin vệ tinh và dựa trên thời tiết, cho phép các nhà sản xuất cây trồng theo dõi sự phát triển của cây trồng trong thời gian thực, đánh giá hiệu suất của các mảnh ruộng và ước tính sản lượng cho mỗi mảnh ruộng với độ chính xác tương đối.

Nông nghiệp chính xác tạo ra cơ hội đa dạng cho việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa các quy trình nông nghiệp, cho phép các nhà sản xuất chuyển dữ liệu nông sản thô giúp cải thiện chất lượng và số lượng thu hoạch. AI cũng trao quyền cho các nhà sản xuất lựa chọn cây trồng và giống cây trồng tốt nhất cho khu vực của họ, đồng thời tận dụng quá trình tự động hóa trang trại để giảm thiểu việc sử dụng tài nguyên.

Việc số hóa toàn bộ quy trình, từ sản xuất và thu hoạch đến nhập kho và phân phối, đang tăng cường thông tin liên lạc giữa các bên liên quan khác nhau trong hệ thống nông nghiệp. Việc số hóa cũng nâng cao khả năng hiển thị dọc theo chuỗi cung ứng, làm cho quy trình trở nên minh bạch hơn và hiệu quả cao hơn.

1.2 Chuyển đổi số trong nông nghiệp của Liên minh châu Âu

Chuyển đổi số trong nông nghiệp và nông thôn là một ưu tiên chính sách ở cấp độ toàn cầu. Tại châu Âu, Ủy ban châu Âu đặt ra một trong những mục tiêu là “kết nối hoàn toàn giữa người nông dân và nông thôn với nền kinh tế số” để đạt được một tương lai thông minh hơn, hiện đại và bền vững hơn về lương thực và nông nghiệp. Tiếp theo là Thỏa thuận xanh, trong đó công nghệ kỹ thuật số được coi là “yếu tố quan trọng để đạt được các mục tiêu bền vững của Thỏa thuận xanh trong nhiều lĩnh vực”.

Vào năm 2020, chiến lược Farm to Fork chỉ ra rằng “CAP cũng phải tăng cường tạo điều kiện đầu tư hỗ trợ nâng cao khả năng phục hồi và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh và kỹ thuật số của các trang trại”. Do đó, chuyển đổi kỹ thuật số là quá trình theo thời gian, các lựa chọn sử dụng công nghệ kỹ thuật số, mức độ phức tạp liên quan (tức là sự tương tác giữa các khía cạnh khác nhau của hệ thống, chẳng hạn như công nghệ (kỹ thuật số); thể chế; tổ chức; con người và môi trường) và tác động đến xã hội, dù tích cực hay tiêu cực, đều tăng lên. Chuyển đổi kỹ thuật số là giải pháp cho những thách thức mà nông nghiệp và nông thôn phải đối mặt như một phần của quá trình chuyển đổi theo hướng “Nông nghiệp 4.0” góp phần chuyển đổi hệ thống nông nghiệp.

Các công nghệ kỹ thuật số như trí tuệ nhân tạo (AI), robot, blockchain, điện toán hiệu suất cao (HPC), Internet of Things (IoT) và 5G có tiềm năng hiệu quả trang trại và cải thiện sản xuất, đồng thời góp phần làm cho các hệ thống canh tác bền vững hơn từ quan điểm kinh tế, xã hội và môi trường, cũng như trường hợp của các lĩnh vực khác.

Những công nghệ như vậy có thể tối ưu hóa tất cả loại hình canh tác, cho phép ra quyết định tốt hơn và định hình lại hoạt động của thị trường nông sản thực phẩm. Việc tăng cường sử dụng công nghệ kỹ thuật số cũng sẽ tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống của người lao động nông nghiệp và người dân nông thôn, đồng thời có thể thu hút thế hệ trẻ đến với nông nghiệp và khởi nghiệp kinh doanh ở nông thôn.

Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số trong nông nghiệp và nông thôn ở EU ở mức trung bình, thấp. Việc thiếu thông tin về các công nghệ hiện có, thiếu kỹ năng kỹ thuật số và tính sẵn có hạn chế của các phân tích chi phí/lợi ích đáng tin cậy của các công nghệ mới là những thách thức đối với việc tăng cường đầu tư vào các ứng dụng kỹ thuật số. Các công nghệ như trí tuệ nhân tạo, robot, blockchain, internet vạn vật, điện toán hiệu suất cao và băng thông rộng nhanh, bao gồm cả 5G, đang gây ra những biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế và xã hội và sẽ đặc biệt quan trọng đối với nông nghiệp thông minh và các khu vực nông thôn. Châu Âu có những tài sản rất có giá trị để xây dựng, chẳng hạn như thế mạnh trong lĩnh vực robot phục vụ nông nghiệp chính xác và hệ thống triển khai CAP dựa trên các giải pháp quản lý dữ liệu kỹ thuật số.

Tóm lại, chuyển đổi số trong nông nghiệp có thể cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả người dân ở các vùng nông thôn và tăng cường khả năng cạnh tranh của trang trại và doanh nghiệp nông thôn châu Âu, kể cả những doanh nghiệp nhỏ. Chúng cũng có thể củng cố chức năng của thị trường đơn lẻ và quá trình gắn kết kinh tế - xã hội.

Việc nhận ra những lợi ích đầy đủ của chuyển đổi kỹ thuật số trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ có thể thực hiện được nếu những công nghệ như vậy có sẵn ở khắp mọi nơi và được tất cả trang trại và người dân nông thôn trên khắp châu Âu áp dụng. Khả năng kết nối kỹ thuật số hiệu suất cao, phổ biến là điều kiện tiên quyết cho sự sẵn có và tiếp nhận các công nghệ và dịch vụ kỹ thuật số hiện đại ở các khu vực nông thôn.

2. Chuyển đổi số trong nông nghiệp của Hungary

Hungary là một trong những nước có ngành nông nghiệp phát triển nhanh nhất của EU. Ảnh minh họa. 

Chuyển đổi số mang lại hiệu quả và lợi nhuận của nền kinh tế nông nghiệp ở các nước cạnh tranh và công nghệ kỹ thuật số đóng góp lớn vào kết quả đó. Thay đổi các quy trình công nghệ, giao tiếp, mô hình kinh doanh và quản lý dữ liệu và chuyển đổi các quyết định của người quản lý. Các giải pháp nông nghiệp kỹ thuật số hiện nay là sự tiện lợi với các chức năng và cũng đã trở thành nhân tố cạnh tranh. Liên minh châu Âu (EU) có những kế hoạch thay đổi về nông nghiệp đối với chính sách nông nghiệp chung (CAP) từ năm 2020 trở đi.

Trong các đề xuất, việc bảo vệ môi trường đóng vai trò quan trọng, một trong số đó được mệnh danh là công cụ cho sản xuất nông nghiệp chính xác. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế nông nghiệp trong nước là một phần của lợi ích của công nghệ và áp lực thị trường đã bắt đầu khai thác các cơ hội do số hóa mang lại. Tuy nhiên, quá trình này chủ yếu được thấy ở các công ty lớn, thâm dụng vốn nhiều hơn và đổi mới. Qúa trình số hóa của các nền kinh tế nhỏ hơn diễn ra chậm hơn và đòi hỏi nhiều hơn.

Trong vài thập kỷ qua, nông nghiệp hay theo nghĩa rộng hơn là quản lý tài nguyên thiên nhiên đã phải đối mặt với một loạt những khó khăn, thách thức đòi hỏi phải có giải pháp ngoài quá trình công nghiệp hóa các hoạt động trồng trọt gần đây. Biến đổi khí hậu toàn cầu, sự cần thiết của hệ thống lương thực quốc gia và khu vực có khả năng chống chịu và đảm bảo (thiết lập) sinh kế bền vững cho nông dân sản xuất nhỏ đều liên quan đến những căng thẳng hiện nay trong nông nghiệp. Hungary là một nước có khả năng để giải quyết những thách thức hiện tại và trong số đó, sự sẵn sàng về ứng dụng công nghệ của ngành nông nghiệp dường như là quan trọng.

Theo công ty tư vấn quản lý toàn cầu McKinsey & Co., đẩy mạnh số hóa và hội tụ theo hướng kinh tế dựa trên công nghệ có thể giúp tăng trưởng GDP Hungary thêm nửa điểm phần trăm mỗi năm cho đến năm 2025. Gần một nửa hoạt động của lực lượng lao động ở Hungary hiện nay có thể được tự động hóa vào năm 2030 phân tích cho thấy công nghệ đã có sẵn, dẫn đến năng suất cao hơn. Đặc biệt là các lĩnh vực sử dụng nhiều lực lượng lao động và hiện chưa được số hóa, chẳng hạn như sản xuất, nông nghiệp và thương mại, cho thấy tiềm năng tự động hóa đáng kể.

Để chuyển đổi số thành công, Hungary đã thông qua chương trình Công nghiệp 4.0 vào năm 2016. Điều này tập trung vào các lĩnh vực đã có tầm quan trọng chiến lược trong nền kinh tế và trong đó số hóa, nghiên cứu và phát triển cao hơn có thể nâng cao đáng kể hàm lượng giá trị gia tăng.

Các lĩnh vực mục tiêu này bao gồm xe điện và xe tự động; sức khỏe điện tử; du lịch; thương mại kỹ thuật số; các ngành nông nghiệp thông minh. Hỗ trợ các doanh nghiệp là một khía cạnh quan trọng của chiến lược phát triển ngành vì các công ty này đóng góp 54% GDP Hungary và sử dụng 70% lực lượng lao động của quốc gia.

Canh tác chính xác, tối ưu hóa việc sử dụng các nguyên liệu đầu vào khan hiếm, do đó đạt được một nền kinh tế tốt hơn và hệ thống canh tác thân thiện với sinh thái (bền vững) là tất cả kết quả tích cực tiềm năng sự phát triển công nghệ của Công nghiệp 4.0 đang diễn ra trong nông nghiệp.

Sự phát triển của nền tảng công nghệ và môi trường đổi mới cũng là những yếu tố nội sinh của tăng trưởng và cuối cùng xuất hiện trong cả các chỉ số cấp quốc gia (Chiến lược nông nghiệp kỹ thuật số của Hungary) và cấp độ EU (Chỉ số kinh tế và xã hội kỹ thuật số, DESI của EU) và các chính sách khác.

Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Kinh tế Nông nghiệp Hungary, giá trị của các tác động kinh tế tổng thể của việc chuyển đổi sang nông nghiệp số là khoảng 6,9% trong số 656 nông dân/tổ chức được báo cáo. Chính xác hơn, tăng trưởng năng suất (lúa mì: 1-17%, ngô: 2-9%, hướng dương: 6-10%) đã được phát hiện cùng với các tác động môi trường được kiểm soát và hạn chế.

Sự khác biệt đã được nhấn mạnh: trong trường hợp trao đổi máy móc hoàn chỉnh, các trang trại nhỏ hơn sẽ phải đối mặt với khoản đầu tư trên 500.000 HUF (khoảng 1.600 Euro) mỗi ha, trong khi các hộ nông nghiệp mở rộng trên 1000ha phải đầu tư khoảng 328.000 HUF (hơn 1.000 Euro) mỗi ha. Khoản đầu tư như vậy sẽ làm tăng thu nhập hằng năm từ 6% (trang trại nhỏ) đến 9% (vốn sở hữu).

Sau khi thực hiện và với tác động của Chính sách Nông nghiệp chung, Hungary cũng có thể đưa ra những hạn chế như khan hiếm nước, tăng giá đầu vào, giảm trợ cấp nông nghiệp trực tiếp – có thể có tác động lớn hơn và hiệu quả hơn đối với sự phát triển trong tương lai của nông nghiệp Hungary so với mục đích cá nhân là bắt kịp những phát triển công nghệ mới nhất. Ở cấp độ quốc gia, hạn chế là trở nên hiệu quả và cạnh tranh hơn trong thị trường nội bộ. Nông nghiệp 4.0 là biện pháp đầy đủ và được chấp nhận rộng rãi cho điều này, thì việc nâng cao trình độ học vấn, thông tin, kiến thức và nhận thức của người nông dân là điều cần thiết. Do đó, hệ thống giáo dục Hungary phải tập trung vào việc cải thiện mức độ sẵn sàng tổng thể trong việc sử dụng các công nghệ của Công nghiệp 4.0, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp.

Nền tảng giáo dục và sự chấp nhận các công nghệ tiên tiến đều tụt hậu so với các cấp độ đối với các chỉ số giống nhau trong toàn xã hội. Người nông dân nên được giáo dục để thấy sự đóng góp của việc sử dụng các công nghệ tiên tiến không phải là mối đe dọa và có hại đến ngành nông nghiệp. Việc thu hút các thế hệ trẻ có tầm quan trọng cao nhất, thế hệ trẻ coi việc làm nông với công nghệ tiên tiến là một hình thức công việc hấp dẫn hơn, vốn theo truyền thống được cho là vất vả.

Ngoài nền giáo dục phù hợp và sự tham gia của các thế hệ mới, nền tảng tài chính đầy đủ cũng là yếu tố tạo nên các công nghệ tiên tiến trong nông nghiệp. Việc thiếu nền tảng tài chính cần được xử lý bằng một hệ thống nguồn lực tài chính được tái cấu trúc. Có thể thấy rằng, mức độ giảm dần các hỗ trợ trực tiếp trong tương lai từ EU sẽ được thay thế một phần bằng các nguồn khác, như chương trình Horizon 2020.

Để đảm bảo chuyển đổi số trong nông nghiệp thành công, Chính phủ Hungary đặt ra một số chương trình, chính sách phát triển ngành nông nghiệp trở nên vững mạnh, cạnh tranh, mang lại hiệu quả và hiệu suất hơn.

Thứ nhất, Chương trình Phúc lợi Kỹ thuật số Hungary (Hungarian Digital Welfare Program, DJP 2.0) đóng vai trò như một khuôn khổ để phát triển các kỹ năng mềm, các năng lực kỹ thuật số, nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của ngành công nghiệp và nông nghiệp Hungary, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Mục đích của chương trình là giúp các doanh nghiệp tận dụng được những lợi ích của số hóa để tăng khả năng cạnh tranh, nhấn mạnh vai trò của số hóa cũng trong nông nghiệp, tự động hóa là điều kiện cơ bản để tăng năng suất và hiệu quả.

Chương trình đưa ra các đề xuất cho sự phát triển nông nghiệp số, chẳng hạn như chuẩn bị Chiến lược kỹ thuật số, thành lập Học viện Nông nghiệp số, đào tạo các nhà tư vấn và cố vấn kỹ thuật số, chuẩn bị Chương trình tích hợp dữ liệu nông nghiệp, phát triển kỹ thuật số của các doanh nghiệp nông nghiệp, tất cả đều khuyến khích khai thác tiềm năng trong nông nghiệp của Hungary. Cần nhấn mạnh rằng các cố vấn nông nghiệp và chuyên gia tư vấn từ mạng lưới quốc gia phải cung cấp hỗ trợ đáng tin cậy, độc lập, khách quan và độc lập với bất kỳ nhà cung cấp đầu vào, nhà cung cấp ứng dụng hoặc đại lý nào.

Thứ hai, Chiến lược của tổ chức này (DAS) là thu thập thông tin, xử lý thông tin, sử dụng công nghệ góp phần vào sản xuất nông nghiệp bằng cách tự động hóa và vận hành rô bốt làm tăng lợi nhuận của tài nguyên môi trường sẵn có ngoài việc sử dụng. Chiến lược Nông nghiệp số của Hungary nhằm vào các tổ chức chuyên nghiệp và phi Chính phủ cũng như “Hệ sinh thái” kỹ thuật số. Chính phủ tiếp tục xem xét tất cả các bên liên quan để làm phong phú thêm các đề xuất của Chiến lược. Hungary không chỉ là nước sử dụng thành công các công nghệ mới mà còn là một bên tham gia phát triển – tham gia lại công nghệ nông nghiệp hàng đầu thế giới.

Để đạt được mục tiêu của Chiến lược Nông nghiệp số của Hungary, điều cần thiết là canh tác chính xác phải được sử dụng rộng rãi càng tốt: đất canh tác trong sản xuất cây trồng, chăn nuôi, làm vườn, trồng nho, đánh cá và cả lâm nghiệp. Lợi nhuận của canh tác chính xác trong quá trình sản xuất được cung cấp bởi dữ liệu được tạo ra.

Để đạt được mục tiêu này, việc thu thập dữ liệu cấp nhà máy phải được đảm bảo, sử dụng các ứng dụng quản lý thực vật trong quản lý trang trại và các quyết định trong quá trình chuẩn bị. Dữ liệu sản xuất tạo thành cơ sở cho hoạt động của hệ thống theo dõi sản phẩm.

Mục tiêu của Chiến lược Nông nghiệp số của Hungary là cung cấp năng lực và kiến thức cần thiết cho các bên liên quan. Từ phổ biến đến giáo dục đại học và cung cấp các dịch vụ tư vấn nông nghiệp kỹ thuật số cho người sản xuất. Để tăng lợi nhuận, điều quan trọng của các công nghệ kỹ thuật số là nhu cầu của các nhà sản xuất và ứng phó với những thách thức thực tế. Chiến lược Nông nghiệp số của Hungary đã đặt ra mục tiêu là một môi trường đổi mới nông nghiệp số và phát triển “hệ sinh thái” khởi nghiệp.

Chiến lược Nông nghiệp số của Hungary nhằm mục đích tạo ra công nghệ kỹ thuật số hỗ trợ việc khai thác các lợi ích của sự phát triển trong các lĩnh vực của nền kinh tế nông nghiệp trong nước, cũng như môi trường và giúp xác định và quản lý các rủi ro đang phát sinh. Các khu vực bị ảnh hưởng bởi sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp, dòng sản phẩm và phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu – phát triển – đổi mới, dịch vụ hành chính, công cộng và hệ thống chính sách phát triển và viện trợ.

Thứ ba, Học viện Nông nghiệp số (Digital Agricultural Academy, DAA). Làm quen và sử dụng công nghệ kỹ thuật số và những kiến thức cơ bản cần thiết cho người nông dân và các tác nhân khác trong nền kinh tế nông nghiệp. Các hoạt động giáo dục của Học viện Nông nghiệp số củng cố một thực tế rằng họ là những thành viên trong ngành có ý thức sử dụng công nghệ kỹ thuật số, sản xuất và cấp độ nhà máy để tăng thu nhập và lợi nhuận.

Quá trình đào tạo của Học viện Nông nghiệp số đảm bảo rằng những người nông dân và người vận hành nông nghiệp có kiến thức kỹ thuật số, những người không có quyền truy cập vào các công cụ và giải pháp số hóa nông nghiệp sẵn có – và nếu họ quan tâm – có được kiến thức cơ bản của người dùng cần thiết để sử dụng và biên soạn một khái niệm cơ bản cho sự phát triển của nhà máy của riêng họ. Học viện Nông nghiệp số cho phép học viên sử dụng các công cụ và ứng dụng trong cuộc sống thực và trải nghiệm ứng dụng trong các nhà máy trình diễn kỹ thuật số.

Thứ tư, “Chương trình người nông dân thông minh” nhằm mục đích tổng hợp kiến thức về nền kinh tế nông nghiệp số vào tất cả các chương trình đào tạo nghề nông nghiệp, cũng như cung cấp cho học viên chương trình đào tạo nghề nông nghiệp, chương trình đào tạo thực hành của các giảng viên cần thiết để tiếp thu kiến thức, điều kiện vật chất, nền kinh tế trình bày và đối tác. Thế hệ trẻ có vai trò to lớn trong việc truyền bá công nghệ kỹ thuật số, thế hệ lớn tuổi hơn trong việc thuyết phục và giáo dục các thế hệ.

Cơ khí chính xác hiện đang được đào tạo nghề nông nghiệp trồng trọt là một phần của chương trình học liên quan đến cơ khí chế tạo, tuy nhiên sinh viên các ngành này chỉ có kiến thức lý thuyết được học trong các khóa đào tạo, ít có cơ hội trình bày thực tế tại các cơ sở đào tạo nghề. Cần phải đảm bảo rằng tất cả chương trình giảng dạy liên quan đến nông nghiệp bao gồm các công nghệ kỹ thuật số cấp độ sản xuất, nhà máy và dòng sản phẩm; giảm thiểu chi phí nông nghiệp kỹ thuật số tìm hiểu về các cơ hội có sẵn cũng có thể được kiểm tra và có thể sử dụng liên tục các công cụ và ứng dụng trong chương trình giảng dạy. Các cơ sở đào tạo nghề thiết bị kỹ thuật số có thể được sử dụng trong các cuộc trình diễn thực tế trong khóa đào tạo của Học viện Nông nghiệp số để lưu giữ.

Thứ năm, nông nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu hơn so với các lĩnh vực về cả mức độ phơi nhiễm và đóng góp. Những hậu quả trực tiếp bao gồm điều kiện thời tiết khắc nghiệt, các vấn đề về chất lượng các loại rủi ro sức khỏe mới đối với đời sống thực vật, trong khi những hậu quả gián tiếp có liên quan nhất bao gồm sự biến động của giá cả thị trường toàn cầu và do đó sẽ biến động thu nhập của nông dân. Giữ môi trường trong một điều kiện bền vững là rất quan trọng đối với nông nghiệp, vì đây là yếu tố quan trọng nhất của sản xuất trong tương lai.

AI có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị và giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thậm chí có thể làm đảo ngược một số quá trình liên quan. Về mặt giảm thiểu hay đảo ngược một số tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, ngành nông nghiệp đặc biệt bị ảnh hưởng sâu sắc bởi khí thải độc hại trong chăn nuôi (ví dụ: di chuyển của động vật trong trang trại), sản xuất thực vật (ví dụ: sử dụng phân bón) và lâm nghiệp (ví dụ: lựa chọn loài gỗ). Hungary phải thích ứng với các quy định quốc tế; Phát thải amoniac nông nghiệp phải được giảm tổng cộng 32% vào năm 2030 theo các chỉ thị liên quan của EU. Các giải pháp tối ưu hóa dựa trên AI liên quan đến sản xuất cây trồng và vật nuôi có thể giúp giảm thiểu tác động sinh thái liên quan cùng với khí thải độc hại trong nông nghiệp.

Tóm lại, chuyển đổi số trong nông nghiệp của Hungary đòi hỏi cả sự phát triển về cơ sở hạ tầng và sự sẵn có của lực lượng lao động có kỹ năng kỹ thuật số. Các cộng đồng địa phương, mạng lưới cần được hỗ trợ đầy đủ về tài chính và các cơ hội giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở các khu vực tụt hậu, nơi mà không có sự trợ giúp từ bên ngoài, dự kiến sẽ xảy ra tình trạng giảm dân số hoàn toàn vào năm 2040. Tuy nhiên, các khu vực nông thôn có điều kiện thuận lợi hơn sẽ thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư cá nhân và doanh nghiệp.

Số hóa nông nghiệp sẽ thay đổi cơ bản cách thức vận hành bao gồm cả các khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội. Các yếu tố chính thúc đẩy tầm nhìn tương lai đầy hứa hẹn là xây dựng năng lực để chuyển giao kiến thức, thích ứng để tạo việc làm và mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn, xây dựng cộng đồng mạnh mẽ hơn để hợp tác, sự tham gia sâu hơn của chính phủ trong việc tạo ra các điều kiện khuôn khổ cần thiết và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tăng cường bản sắc địa phương ở nông thôn. Chuyển đổi số với sự phối hợp tốt hơn của các thể chế và nền tảng hiện có, giúp duy trì và mở rộng vốn tri thức đều được coi là những cơ hội lớn để hiện thực hóa tầm nhìn.

3. Gợi mở cho Việt Nam

Từ những phân tích về Hungary, có thể thấy chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp xanh bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu là nhu cầu cấp bách và là hướng đi tất yếu, khách quan của nền nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và trước áp lực của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu của Việt Nam là phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tiên tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất lao động, làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, hiệu quả, giá trị cao, có sức cạnh tranh cao, an toàn, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Muốn đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần đẩy mạnh việc tái cơ cấu lại nền nông nghiệp, tăng cường phát triển công nghệ cao vào nông nghiệp, các khu, các vùng nông nghiệp công nghệ cao, phát triển toàn diện và thực hiện đồng bộ các kiến nghị và giải pháp sau đây:

Thứ nhất, về mặt lợi ích, việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Trước tiên là áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến mà hàng hóa sản xuất ra được nhiều hơn, nhanh hơn, chất lượng tốt và năng suất cao hơn so với sản xuất truyền thống và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Một yêu cầu thiết yếu đặt ra hiện nay của người tiêu dùng.

Thứ hai, là người nông dân sẽ tiết kiệm được công sức lao động do ứng dụng máy móc kỹ thuật cao, tiết kiệm vật tư, chi phí sản xuất, chủ động trong sản xuất, giảm sự phụ thuộc vào thời tiết, biến đổi khí hậu, tránh được các rủi ro về thời tiết, dịch bệnh, giảm thất thoát thiệt hại sau thu hoạch, tránh tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa và giúp sản xuất ổn định, tạo được thương hiệu hàng hóa nâng cao sức cạnh tranh.

Thứ ba và cũng rất quan trọng là việc phát triển nông nghiệp công nghiệp cao sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ, chuyên gia, công nhân, kỹ thuật có trình độ, năng lực nắm bắt được khoa học công nghệ điều hành sản xuất kinh doanh.

Giải pháp về nguồn vốn: Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp cần có nguồn vốn lớn, thời gian đầu tư dài, thu hồi vốn chậm. Do đó, đòi hỏi Nhà nước và các bộ, ngành như tài chính, ngân hàng, các tổ chức tín dụng có cơ chế, chính sạch tạo điều kiện ưu đãi, giảm các khó khăn phiền hà về thủ tục, về bảo lãnh, về quyền tài sản trên đất, thuận lợi để các doanh nghiệp, tổ chức, người nông dân có thể tiếp cận các nguồn vốn đầu tư dễ dàng.

Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về giá thuê đất, thuê mặt bằng, cơ sở logistics, hỗ trợ về tiền thuế đất, thuế tài sản. Tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Mặt khác Nhà nước khuyến khích việc chuyển giao công nghệ cho sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.

Về giải pháp nguồn nhân lực: Để có nguồn nhân lực cho việc phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao, Nhà nước cần có chính sách, giải pháp khắc phục những mặt yếu kém, tồn tại liên quan đến nguồn nhân lực đã nêu ở trên. Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên gia, công nhân, nhân viên kỹ thuật và người nông dân. Gắn việc giảng dạy lý thuyết với thực hành, liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nâng cao năng năng lực tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.

Về giải pháp khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ: Đây là lĩnh vực ở nước ta còn có nhiều hạn chế, đòi hỏi Nhà nước và các bộ ngành liên quan cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các ngành khoa học kỹ thuật công nghệ cao, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như: công nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ vật lý, công nghệ sinh học (gen, tế bào, phân tử), công nghệ quản lý, điều hành.

Khuyến khích nghiên cứu các công trình sáng tạo, ươm mầm, khởi nghiệp về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, cải tạo các giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chống chịu được sâu bệnh, thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, cần quan tâm đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm phát triển của các nước nhằm tranh thủ, hoặc có thể đi trước đón đầu khoa học công nghệ tiên tiến.

Cuối cùng về giải pháp về hợp tác quốc tế: Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế có độ mở lớn, đã ký nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với nhiều nước và sẽ ngày càng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, Việt Nam cần tăng cường đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp, mở rộng quan hệ trao đổi kinh nghiệm, chuyên gia, đồng thời tranh thủ các nguồn hợp tác và đầu tư của nước ngoài, tranh thủ sự chuyển giao công nghệ, hiện đại, tiên tiến của các nước phục vụ cho công cuộc phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

ThS. Trịnh Thành Vinh - Viện Nghiên cứu châu Âu

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang