Vấn đề tăng hậu kiểm và minh bạch nguồn gốc mỹ phẩm trên sàn thương mại điện tử
(VietQ.vn) - Thị trường tăng trưởng nhanh, nhu cầu lớn cùng lợi nhuận cao khiến mặt hàng mỹ phẩm trở nên dễ bị làm giả, làm nhái, điều này đòi hỏi siết chặt quản lý, minh bạch nguồn gốc để bảo vệ người tiêu dùng.
Hà Nội: Quảng bá sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch xã Bát Tràng 2025
Thu hồi nhiều lô mỹ phẩm không đạt chất lượng của Công ty Tạ Minh Quang
TP.HCM: Loạt công ty kinh doanh dược - mỹ phẩm bị xử phạt
Hiện nay, thị trường mỹ phẩm Việt Nam có quy mô ước đạt từ 2,3 đến 2,5 tỷ USD. Bên cạnh những tín hiệu tăng trưởng tích cực, thị trường này đang phải đối mặt với tình trạng mỹ phẩm giả, không rõ nguồn gốc xuất hiện tràn lan trên các nền tảng thương mại điện tử, gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế cho người tiêu dùng, đồng thời tạo áp lực lớn đối với cơ quan quản lý.
Theo Tiến sĩ Tạ Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế), những năm gần đây, lượng mỹ phẩm tiêu thụ tại Việt Nam tăng nhanh, trong đó hàng nhập khẩu chiếm từ 80–90%, chủ yếu đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước châu Âu. Thị trường tiêu thụ tập trung tại các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và đang mở rộng dần về khu vực nông thôn, miền núi. Nhu cầu lớn cùng lợi nhuận cao khiến mỹ phẩm trở thành mặt hàng dễ bị làm giả, làm nhái.
Ở góc độ quản lý thương mại điện tử, bà Lê Thị Hà, Trưởng phòng Quản lý Hoạt động thương mại điện tử (Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương) cho biết, mỹ phẩm giả, không rõ nguồn gốc bán trên các nền tảng trực tuyến là nhóm hàng khó kiểm soát nhất. Khảo sát của Bộ Công Thương cho thấy, hơn 60% người tiêu dùng Việt Nam mua mỹ phẩm qua các sàn thương mại điện tử, phổ biến trên Shopee, TikTok Shop…

Mỹ phẩm kém chất lượng, không rõ nguồn gốc bán tràn lan trên các sàn thương mại điện tử. Ảnh: Lê Thúy Hằng/TTXVN
Hoạt động kinh doanh mỹ phẩm online tiềm ẩn nhiều rủi ro khi chất lượng sản phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Nhiều hành vi vi phạm ngày càng tinh vi như nhái thương hiệu, bán sản phẩm chưa được công bố, quảng cáo sai công dụng, lợi dụng hình thức livestream để tiêu thụ hàng hóa.
Thực tế, hiện mới chỉ có khoảng 18% nền tảng thương mại điện tử hoàn thiện đầy đủ thủ tục pháp lý, số còn lại chưa tuân thủ hoặc tuân thủ chưa đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu do một số quy định chưa phù hợp với đặc thù kinh doanh trên môi trường số. Việc xác minh nguồn gốc mỹ phẩm chủ yếu dựa vào trách nhiệm của người bán, trong khi các sàn chưa có công cụ kết nối, đối chiếu dữ liệu với cơ quan quản lý nhà nước.
Ngoài ra, các quy định hiện hành mới tập trung vào khâu sản xuất, chưa bao quát đầy đủ hoạt động kinh doanh mỹ phẩm trên nền tảng số. Một số đối tượng có thể chỉnh sửa phiếu công bố để hợp thức hóa hàng giả, trong khi chế tài xử phạt chưa theo kịp các mô hình mới như livestream bán hàng, tiếp thị liên kết hay kinh doanh xuyên biên giới. Hạ tầng dữ liệu quản lý mỹ phẩm còn phân tán, thiếu liên thông giữa các ngành y tế, hải quan, thuế, quản lý thị trường.
Đề xuất giải pháp, ông Nguyễn Tấn Phong, Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật – Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, cho rằng cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mỹ phẩm, triển khai mã QR và hệ thống truy xuất nguồn gốc để người tiêu dùng dễ dàng kiểm tra thông tin sản phẩm.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của hậu kiểm – tuyến phòng vệ cuối cùng bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Hậu kiểm giúp kịp thời phát hiện sản phẩm chứa chất cấm, sai lệch thành phần, quảng cáo thổi phồng hoặc không rõ nguồn gốc để thu hồi, xử lý. Đồng thời, cần sửa đổi các quy định pháp luật, tăng chế tài xử phạt, quy rõ trách nhiệm của doanh nghiệp, sàn thương mại điện tử và người quảng bá sản phẩm.
Theo ông Tạ Mạnh Hùng, để kiểm soát hiệu quả chất lượng mỹ phẩm trên sàn thương mại điện tử, cần thực hiện đồng bộ bốn nhóm giải pháp: hoàn thiện khung pháp lý và tăng cường hậu kiểm; nâng cao chế tài xử phạt; xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch; đồng thời có chính sách hỗ trợ phát triển mỹ phẩm sản xuất trong nước, gắn với nguyên liệu bản địa và giá trị tự nhiên.
TCVN 12975:2020 về bao gói, ghi nhãn mỹ phẩm
Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 12975:2020, hài hòa với ISO 22715:2006, quy định các yêu cầu đối với bao gói và ghi nhãn mỹ phẩm, nhằm bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, nâng cao tính minh bạch của sản phẩm và tạo thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước.
Theo tiêu chuẩn này, bao gói mỹ phẩm phải phù hợp với bản chất của sản phẩm, bảo đảm không làm biến đổi thành phần, chất lượng trong suốt thời hạn sử dụng. Vật liệu bao gói không được gây phản ứng với mỹ phẩm, đồng thời phải bảo vệ sản phẩm khỏi các tác động bất lợi từ môi trường như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm và nguy cơ nhiễm bẩn trong quá trình lưu thông, bảo quản.
Về ghi nhãn, TCVN 12975:2020 yêu cầu nhãn mỹ phẩm phải cung cấp đầy đủ, rõ ràng và dễ đọc các thông tin cần thiết cho người tiêu dùng. Nội dung bắt buộc bao gồm tên sản phẩm, công dụng, thành phần, hướng dẫn sử dụng, cảnh báo an toàn (nếu có), số lô sản xuất, hạn sử dụng hoặc ngày sản xuất, tên và địa chỉ tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm đưa sản phẩm ra thị trường. Các thông tin này phải trung thực, không gây hiểu nhầm về tính năng hay công dụng của mỹ phẩm.
Tiêu chuẩn cũng nhấn mạnh trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo đảm tính thống nhất giữa nội dung ghi nhãn và hồ sơ công bố sản phẩm. Việc tuân thủ TCVN 12975:2020 không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi, sức khỏe người tiêu dùng mà còn góp phần ngăn chặn mỹ phẩm giả, nhái, kém chất lượng, đặc biệt trong bối cảnh kinh doanh mỹ phẩm trên môi trường thương mại điện tử ngày càng phát triển.
An Dương (T/h)









