Các biện pháp phi thuế quan mới trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam
Vượt hàng rào kỹ thuật thương mại, doanh nghiệp Việt vươn ra ‘biển lớn’
Hệ thống quản lý chất lượng- Chìa khóa tránh hàng rào kỹ thuật, đẩy mạnh xuất khẩu
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, hàng rào thuế quan không còn là vấn đề cốt yếu khi các doanh nghiệp cân nhắc và lựa chọn xuất khẩu. Hàng rào phi thuế quan hay các biện pháp phi thuế quan đã trở thành vấn đề đòi hỏi doanh nghiệp, chính phủ cần quan tâm nhiều hơn, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
Bài viết xem xét tác động của biện pháp phi thuế quan được áp dụng trong năm 2020 tới các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả cho thấy có một xu hướng tăng áp dụng các biện pháp phi thuế quan trên thế giới. Việc này đã ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Từ đó, bài viết đề xuất một số gợi ý về chính sách đối với Chính phủ và doanh nghiệp để chủ động thích ứng với các biện pháp phi thuế quan mới sau này.
1. Đặt vấn đề
Sau gần hai năm kể từ khi ca nhiễm Covid-19 đầu tiên được phát hiện ở Vũ Hán, đại dịch Covid-19 đã lan rộng và có những ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi mặt kinh tế, xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới (WHO, 2020). Tính đến tháng 7 năm 2021, tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ghi nhận trên 184 triệu ca nhiễm trong đó có 3,9 triệu trường hợp tử vong có nguyên nhân bắt nguồn từ loại virus này (WHO, 2021).
Đại dịch Covid-19 không chỉ gây thiệt hại về người, nó còn gây tác động rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Đại dịch là nguyên nhân làm trầm trọng thêm sự mất cân đối trong cán cân thương mại giữa các nước, mất cân đối sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Trong bối cảnh hàng rào thuế quan đang dần được dỡ bỏ và các quốc gia tăng cường các biện pháp phi thuế quan (PTQ), đặc biệt là các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật, chống trợ cấp, chống bán phá giá và tự vệ thì sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 càng làm gia tăng số lượng và tần suất xuất hiện của các biện pháp PTQ.
Việc các quốc gia đối tác thương mại đặt ra hàng rào phi thuế quan khắt khe là thách thức lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi thuế quan có mục tiêu chính sách, cách thức thực hiện tương đối rõ ràng và đơn giản thì tiêu chí thực hiện của các biện pháp PTQ lại khá ngắn gọn, nên các nước (đặc biệt là các nước có kinh nghiệm về tranh chấp thương mại) có thể lợi dụng để gây khó khăn cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Trên cơ sở tổng hợp các số liệu, dữ liệu thứ cấp và những đánh giá về việc áp dụng các biện pháp PTQ trên thế giới, bài viết tập trung phân tích những xu hướng áp dụng các biện pháp PTQ mới mà các quốc gia áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu nói chung và các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam nói riêng trong khoảng thời gian kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát từ cuối năm 2019. Câu hỏi chính mà bài viết muốn hướng tới là liệu những biện pháp PTQ mới ngoài các biện pháp PTQ đã được áp dụng từ trước đó được triển khai để ứng phó với đại dịch Covid-19 có thể trở thành những biện pháp PTQ được áp dụng lâu dài kể cả sau khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát và thương mại trở lại trạng thái bình thường hay không.
Kết quả cho thấy, có khá nhiều biện pháp PTQ mới đã được các quốc gia áp dụng đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt là các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật. Những biện pháp này có khả năng cao sẽ được tiếp tục duy trì và áp dụng đối với hàng nhập khẩu kể cả sau khi đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát hoàn toàn và thương mại quốc tế quay trở lại trạng thái bình thường. Đây là một trong những thách thức mới đối với các quốc gia có độ mở lớn và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu các sản phẩm thuộc nhóm chịu ảnh hưởng của những biện pháp PTQ nói trên. Chính phủ, doanh nghiệp của các quốc gia như Việt Nam cần có sự chuẩn bị sẵn sàng cho khả năng này.
Bên cạnh đó, bài viết cũng cung cấp một số đánh giá bước đầu về ảnh hưởng của những biện pháp PTQ mới này đối với thương mại của Việt Nam trong thời gian qua. Kết quả nghiên cứu cho thấy những biện pháp PTQ mới này đã ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam bên cạnh những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19. Từ những phân tích, đánh giá đó, bài viết đề xuất một số gợi ý về chính sách, giải pháp đối với Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam để có thể chủ động thay đổi và thích ứng trong thời gian tới.
2. Đại dịch Covid-19 và xu hướng tăng cường các biện pháp phi thuế quan mới
Chính phủ 198 quốc gia đang gấp rút nghiên cứu và sản xuất vắc-xin và thuốc đặc trị để đối phó với Covid-19 (Reuters, 2021). Bên cạnh đó, tất cả quốc gia đều đang đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc-xin Covid-19 cho người dân, với mục tiêu tạo ra sự miễn dịch cộng đồng để các nước có thể trở lại trạng thái bình thường. Tuy nhiên, các biến thể ngày càng nguy hiểm đã xuất hiện. Biến thể Delta đã và đang gây ra những đợt dịch mới có tốc độ lan truyền nhanh hơn và nguy hiểm hơn (WHO, 2021). Các quốc gia một lần nữa phải xem xét lại các điều kiện mở cửa của mình, cũng như trì hoãn quyết định bình thường hóa cuộc sống của người dân mà không cần sự can thiệp của các biện pháp phòng chống.
Đại dịch Covid-19 tiếp tục kéo dài hơn 20 tháng qua đã làm gián đoạn hoạt động thương mại, sản xuất và gây tổn hại nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế toàn thế giới (Baldwin & Mauro, 2020; Hassani & Dost, 2020). Tuy đại dịch Covid-19 có những ảnh hưởng tới nhiều khía cạnh khác nhau của nền kinh tế các quốc gia, nhưng các nhà nghiên cứu nhất trí rằng xét tổng thể, những tác động tiêu cực đối với thương mại nội địa và thương mại quốc tế ở các quốc gia là rất nghiêm trọng. Thậm chí với 10 nước/vùng lãnh thổ có nền thương mại hàng đầu thế giới là: Mỹ, Trung Quốc, Anh, Đức, Pháp, Italy, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng và thiệt hại nặng nề (Vidya & Prabheesh, 2020). Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh, đặc biệt là ở những ngành nghề và quốc gia nơi việc triển khai làm việc từ xa và điều hành từ xa được thực hiện không hiệu quả (Maliszewska và cộng sự, 2020).
Tác động của đại dịch Covid-19 đối với các nước nhập khẩu chủ yếu là do sự không chắc chắn trong tiêu dùng và những rủi ro trên thị trường tăng lên, dẫn tới tổng cầu giảm mạnh, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu sụt giảm nghiêm trọng (Boone và cộng sự, 2020; Hayakawa & Mukunoki, 2021; UNCTAD, 2021).
Thông thường khi cân nhắc để thay đổi chính sách thương mại, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải nghiên cứu rất kỹ, vì một thay đổi trong chính sách thương mại nội địa có thể tác động tới quan hệ thương mại, cạnh tranh và phúc lợi không chỉ của quốc gia ban hành chính sách mà còn tác động tới các nước đối tác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (Barua, 2020). Tuy nhiên, theo UNCTAD (2021), đại dịch Covid-19 đã khiến hơn 140 quốc gia đã ngay lập tức đưa ra các biện pháp PTQ mới. Những biện pháp này phần lớn là để bảo vệ an ninh và an toàn của mỗi quốc gia trong những diễn biến ngày càng phức tạp của đại dịch Covid-19.
Một số biện pháp đã được triển khai nhằm đáp ứng với những thay đổi đột ngột về nhu cầu của thị trường ví dụ như đối với các hàng hoá thiết yếu và hàng hoá y tế. Một số biện pháp đã được ban hành bởi những nước xuất khẩu nhằm đảm bảo an ninh lương thực và ổn định nguồn cung cho quốc gia. Trong khi một số biện pháp làm gia tăng thương mại thì một số khác được đặt ra với mục tiêu hạn chế hoạt động này.
Theo tổng hợp từ Macmap (2021), từ tháng 3 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021, có 98 quốc gia đã áp dụng các biện pháp PTQ để kiểm soát xuất khẩu và 104 quốc gia đã tạo điều kiện thúc đẩy nhập khẩu với các biện pháp nhập khẩu nới lỏng hơn như đồng ý trả chậm, giảm thuế. Hình 1 tóm tắt dưới dạng biểu đồ từ Macmap về việc sửa đổi chính sách trong giai đoạn Covid-19 (từ tháng 2 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021).
Hình 1. Bản đồ phân bố các chính sách xuất nhập khẩu trên thế giới 2020-2021. Nguồn: Macmap (2021)
Bảng 1 tổng hợp danh sách hàng rào PTQ được các quốc gia trên thế giới áp dụng phổ biến trong bối cảnh đại dịch Covid-19 (UNCTAD, 2021):
Bảng 1. Hàng rào PTQ phổ biến được các quốc gia sử dụng trong giai đoạn Covid-19
Bảng 2. Các biện pháp PTQ do một số nước áp dụng trong bối cảnh đại dịch Covid-19
Các sản phẩm bị ảnh hưởng bởi các biện pháp PTQ này bao gồm: Sản phẩm cung cấp y tế (găng tay, thiết bị bảo hộ cá nhân, vaccine, khẩu trang, bộ lọc, ...), động vật (động vật hoang dã), nông sản (thịt, cá và hải sản,...).
Một số biện pháp đã được áp dụng đối với một số sản phẩm của một số quốc gia nhất định, liên quan đến cuộc chiến tranh thương mại giữa các quốc gia liên quan ví dụ như giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc và Malaysia. Còn lại, các biện pháp đều được áp dụng chung cho các dòng sản phẩm của tất cả các nước (Chi tiết xem thêm tại Phụ lục 1). Chỉ có một biện pháp để kích thích thương mại được bảy nước nói trên sử dụng chủ yếu là miễn hoặc giảm thuế đối với hàng hoá (L41), còn lại là các biện pháp được ban hành để điều tiết và đảm bảo nhu cầu nội địa như: cấm xuất nhập khẩu (P31; A11; E313; E325) và yêu cầu về cấp phép hoặc giấy phép xuất khẩu (P33).
Bốn trên bảy quốc gia có luồng thương mại lớn nhất trên thế giới năm 2020 cũng chính là các thị trường lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cùng Đức thuộc Liên minh châu Âu và Vương quốc Anh là hai quốc gia trong nhóm thị trường tiềm năng. Chính vì vậy, các ảnh hưởng của những biện pháp PTQ được các quốc gia này áp dụng sẽ được làm rõ hơn trong mục 3.
3. Ảnh hưởng của các hàng rào PTQ tới hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
Việt Nam ghi nhận trường hợp nhiễm Covid-19 đầu tiên sớm hơn công bố đại dịch của thế giới, vào giữa tháng 2 năm 2020 (Bộ Y tế, 2020), các trường hợp nhiễm bệnh ở các tỉnh có người từ Vũ Hán, Trung Quốc trở về. Cho đến tháng 8 năm 2021, Việt Nam đã trải qua bốn đợt bùng phát dịch mạnh trên khắp các tỉnh thành. Mặc dù vậy, số liệu thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng và giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng trong năm 2020 và đầu năm 2021 (Tổng cục thống kê, 2021).
Theo thống kê của Macmap (năm 2021), Việt Nam đã ban hành thêm ba quy định có liên quan tới đối phó với Covid-19: (1) Ngày 23/7/2020, cấm nhập khẩu động vật hoang dã và các sản phẩm từ động vật hoang dã từ tất cả các nước; (2) Gian đoạn từ 16/04/2020 tới 07/05/2020, cấm xuất khẩu dược phẩm sang tất cả các quốc gia; (3) Giai đoạn từ 25/3/2020 tới 1/5/2020, kiểm soát lượng gạo xuất khẩu sang các nước.
Có thể thấy, Chính phủ Việt Nam đã có những phản ứng nhanh chóng để đảm bảo an sinh xã hội trước sự lây lan của đại dịch trên toàn thế giới cũng như điều tiết thị trường, dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu sau một thời gian ngắn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nắm bắt cơ hội.
Trong phần này, tác giả tập trung phân tích các quốc gia là thị trường lớn và tiềm năng của Việt Nam trong các năm đến năm 2020. Các thị trường chính có lượng hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam lớn nhất trong các năm đến năm 2020 bao gồm: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông (TrendEconomy, 2020) và các thị trường tiềm năng được đánh giá là thị trường có các hiệp định thương mại tự do với Việt Nam vừa có hiệu lực hoặc đã được ký kết và sẽ có hiệu lực vào năm 2021, bao gồm: các thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKFTA).
3.1. Hoa Kỳ
Theo thống kê của trang OEC năm 2019, trong bảng xếp hạng các nước xuất khẩu, Việt Nam đứng thứ 20 trên toàn thế giới với tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa năm 2019 là 2,608 tỷ USD. Xét theo khu vực trên bản đồ thế giới, châu Á là thị trường nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam lớn nhất và đa dạng nhất.
Tính riêng từng quốc gia, Hoa Kỳ là thị trường được ưa chuộng nhất đối với hàng hóa “made in Việt Nam” trong nhiều năm qua với giá trị hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong năm 2019 đạt 61,4 tỷ đô la Mỹ và năm 2020 là 77,07 tỷ đô la Mỹ (UN Comtrade, 2021).
Theo thống kê của WTO, UNCTAD và Macmap (2021), Mỹ đã áp dụng sáu chính sách PTQ tạo thuận lợi cho nhập khẩu đối với các sản phẩm vật tư y tế, nông sản; trong khi cấm nhập khẩu động vật hoang dã và một số thực phẩm đông lạnh do lo ngại truyền bệnh từ vật trung gian.
Theo thống kê từ Global Trade Alert (GTA), trong giai đoạn từ ngày 1 tháng 1 năm 2020 đến hết năm 2020, có tổng cộng 90 chính sách can thiệp từ Hoa Kỳ bị treo cờ đỏ, có nghĩa là chính sách đó có khả năng gây tác động tiêu cực tới hàng hoá và 8 chính sách để tạo điều kiện thông thương, được gắn nhãn là cờ xanh.
Cũng theo thống kê của GTA trong thời gian nói trên, có tổng cộng 58 mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam bị ảnh hưởng bởi 98 biện pháp PTQ mới được áp dụng vào năm 2020 (bao gồm ảnh hưởng tiêu cực: gắn cờ đỏ và ảnh hưởng tích cực: gắn cờ xanh), 38 mặt hàng được GTA nhận định gắn “cờ đỏ”, 20 mặt hàng còn lại được coi là sẽ được thúc đẩy hơn nữa nhờ 8 biện pháp can thiệp tạo thuận lợi cho thương mại.
Theo thống kê từ UN Comtrade trong khoảng thời gian 3 năm, từ 2018 đến 2020, khi xem xét 38 mặt hàng bị gắn cờ đỏ từ GTA, có 12 mặt hàng thuộc nhóm bị gắn cờ đỏ và 1 mặt hàng gắn cờ xanh chịu ảnh hưởng tiêu cực của các hàng rào PTQ do Hoa Kỳ áp dụng trong thời gian này. Giá trị nhập khẩu 13 mặt hàng này từ Việt Nam vào Hoa Kỳ năm 2020 so với năm 2019 giảm mạnh (> 20%) gồm: một số mặt hàng sắt, thép (nhóm mã HS 72, HS 73) có giá trị nhập khẩu từ Việt Nam giảm từ 5% tới 97,5%; ắc quy điện (nhóm mã HS 85) với giá trị giảm 76,02%; máy bay và tàu vũ trụ (nhóm mã HS 88) giảm 75,2%; dầu và dầu hỏa (nhóm mã HS 27) đã có giá trị nhập khẩu từ Việt Nam giảm 30,1%. Trong đó, các mặt hàng thuộc nhóm mã HS 72 và 73 bị ảnh hưởng nhiều nhất (Xem thêm tại phụ lục 2).
Bên cạnh những mặt hàng bị ảnh hưởng tiêu cực, cũng có 18 mặt hàng đã tận dụng thời cơ với chính sách nới lỏng, xúc tiến thương mại gồm: Nhiệt kế (giá trị nhập khẩu từ Việt Nam tăng 502,6%); Kính mắt, kính bảo hộ... (giá trị nhập khẩu từ Việt Nam tăng 187,0%), hàng dệt may mã HS 630790 (giá trị nhập khẩu từ Việt Nam tăng 159,1%); Hàng may mặc và một số mặt hàng thuộc nhóm mã HS 61 và 62 (giá trị nhập khẩu từ Việt Nam tăng trên 95%);... (Xem thêm ở Phụ lục 3).
3.2. Trung Quốc
Đối với thị trường Trung Quốc, WTO, UNCTAD và Macmap (2021) cho thấy, Trung Quốc đã áp dụng bảy biện pháp PTQ mới trong năm 2020. Vào cùng thời gian này, GTA thống kê được có bảy biện pháp kích thích nhập khẩu hàng hóa và bảy biện pháp có khả năng hạn chế một số mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Theo GTA tổng kết, 114 mặt hàng bị ảnh hưởng bởi 14 biện pháp can thiệp này.
Khác với thị trường Mỹ, thị trường Trung Quốc trong năm 2020 vừa qua khắt khe hơn với các sản phẩm nhập khẩu. Mặc dù đã có các biện pháp khuyến khích nhập khẩu đối với một số mặt hàng nhưng có tới 19 trong số 38 sản phẩm được cho là có thể được hưởng ưu đãi lại không thể tận dụng cơ hội thị trường này mở cửa. Trong số 76 mặt hàng bị GTA gắn cờ đỏ, 39 mặt hàng bị ảnh hưởng tiêu cực, trong đó 25/39 mặt hàng bị ảnh hưởng nặng (Giá trị nhập khẩu các mặt hàng này từ Việt Nam năm 2020 giảm trên 20%).
Các mặt hàng có giá trị nhập khẩu giảm mạnh chủ yếu là một số mặt hàng là nguyên, phụ liệu sản xuất hàng may mặc: sợi bông, vải, thoi dệt, sợi tổng hợp (nhóm mã HS 52, 54). Bên cạnh đó là các mặt hàng thuốc chữa bệnh (nhóm mã HS 30), dụng cụ và thiết bị (nhóm mã HS 90), nhựa (nhóm mã HS 39), dầu và dầu mỏ (nhóm mã HS 27), sắt (nhóm mã HS 72), khăn giấy, khăn ăn và khăn tắm (nhóm mã HS 48), Đồ trang sức giả, trừ kim loại cơ bản đã hoặc chưa mạ kim loại quý (nhóm mã HS 71), ắc quy điện (nhóm mã HS 85).
Về ảnh hưởng đến các mặt hàng thuộc nhóm nguyên, phụ liệu sản xuất hàng may mặc, có hai tình huống. Thứ nhất, các đơn vị sợi Việt Nam rơi vào tình trạng không có đơn hàng, không thể xuất khẩu, nguồn cung bị gián đoạn do dịch bệnh. Do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung kéo dài, thị trường Mỹ và châu Âu đều tránh các sản phẩm có gắn nhãn từ Trung Quốc trong những năm gần đây nên việc hàng may mặc Trung Quốc vào Mỹ và châu Âu sụt giảm mạnh. Bởi vậy, việc không nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào sản xuất hàng may mặc là điều tất yếu xảy ra.
Thứ hai, Việt Nam không thể tự cung cấp đủ bông và sợi dệt, còn phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu, nên khi đại dịch Covid-19 bùng phát, gây đình trệ thương mại, tăng giá vận tải và hậu cần thì các doanh nghiệp cũng phải cân nhắc hơn trong vấn đề nhập khẩu các nguyên liệu này.
Tuy nhiên, một số mặt hàng của Việt Nam đã tận dụng được cơ hội và có giá trị xuất khẩu cao vào năm 2020 (giá trị xuất khẩu lớn hơn 20% so với năm 2019). Theo UN Comtrade (2020), một số mặt hàng Việt Nam có giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc năm 2020 tăng cao, có thể kể đến như: Gỗ nhiệt đới (nhóm mã HS 44) tăng 783,06%; đồng, phế liệu và nhôm, mảnh vụn phế liệu (nhóm mã HS 74, 76) tăng lần lượt là 406,7% và 504,67%; một số mặt hàng giấy và bìa (nhóm mã HS 48) tăng từ 104% lên 225%, trong đó đáng chú ý nhất là nhóm mã HS 85 sản phẩm liên quan đến mạch tích hợp điện tử, thống kê cho thấy có sản phẩm tăng tới 147,878% so với giá trị năm 2019 (Xem thêm tại phụ lục 4).
3.3. Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) và các thị trường tiềm năng khác
3.3.1. Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc)
Nhật Bản đã đưa ra hai biện pháp hạn chế nhập khẩu (GTA, 2021) có thể tác động tiêu cực đến sáu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Dù vậy, nhiều mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đã có giá trị xuất khẩu tăng gồm: thực vật, hoa (nhóm mã HS 06) và hàng dệt (nhóm mã HS 63).
Tương tự như thị trường Nhật Bản, đã có 6/8 sản phẩm của Việt Nam thông qua gói hỗ trợ của Chính phủ Hàn Quốc trong việc kích cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước để tiếp tục thâm nhập thị trường này. Giá trị xuất khẩu của 6 mặt hàng đều tăng, thậm chí tăng cao hơn năm 2019 là 1342,7% (sản phẩm không dệt; đã hoặc chưa ngâm tẩm, tráng, phủ hoặc dát mỏng, sợi filament nhân tạo, trọng lượng trên 25g/m2 nhưng không quá 70g/m2, Mã HS 560312).
Trong khi đó, Hồng Kông không ghi nhận bất kỳ biện pháp PTQ nào được áp dụng trong năm 2020 ảnh hưởng đến hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam.
3.3.2. Các thành viên của hiệp định CPTPP
Bên cạnh những quốc gia là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là thị trường mà Việt Nam mới tham gia và ký kết các hiệp định thương mại tự do. Ba FTA mới nhất đã được ký kết và có hiệu lực là CPTPP (có hiệu lực từ 14 tháng 1 năm 2019), EVFTA (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 8 năm 2020) và UKFTA (sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2021). Với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, thuế suất không còn là vấn đề chính khi các nước đối tác đồng ý và có lộ trình giảm hàng rào thuế quan.
Dù vậy, yêu cầu kỹ thuật cũng như xuất xứ sẽ khắt khe hơn. Đây là những thị trường tiềm năng, sẵn sàng tiếp nhận và sử dụng các sản phẩm mới. Nếu nắm bắt được cơ hội và chuẩn bị sớm các điều kiện bắt buộc về hàng rào PTQ thì việc mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam là khả thi.
Thống kê giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các nước trong CPTPP (trừ Nhật Bản) trong 5 năm qua như sau:
Hình 2. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các quốc gia thành viên CPTPPP từ năm 2016 tới 2020
So với năm 2016, Việt Nam có giá trị xuất khẩu nhiều hơn sang 9 quốc gia trong CPTPP. Tuy nhiên, so sánh số liệu giai đoạn khi CPTPP bắt đầu có hiệu lực với Việt Nam và giai đoạn đại dịch Covid-19, các nước có giá trị nhập khẩu thay đổi nhiều hơn 10% gồm: Mexico, Peru, Malaysia. Đặc biệt, với Brunei giá trị nhập khẩu bất ngờ giảm tới 306,9%.
Theo thống kê của WITS từ 2017 đến hết 2019, nhóm sản phẩm cốt lõi được nhập khẩu từ Việt Nam sang Mexico, Peru, Malaysia và Brunei bao gồm:
- Brunei: Kim loại (nhóm mã HS 72 đến 79; 80 đến 83), Máy móc và đồ điện tử(nhóm mã HS: 84; 85), Khác (nhóm mã HS 90 đến 99), Động vật (nhóm mã HS 01 đến 05).
- Mexico: Máy móc và đồ điện tử (nhóm mã HS 84; 85), Khác (nhóm mã HS 90 đến 99), Giày dép (nhóm mã HS 64 đến 67).
- Peru: Máy móc và đồ điện tử (nhóm mã HS 84; 85), Giày dép (nhóm mã HS 64 đến 67), Khoáng sản (nhóm mã HS 25; 26).
- Malaysia: Máy móc và đồ điện tử (nhóm mã HS 84; 85), Nhiên liệu (nhóm mã HS 27), Khác (nhóm mã HS 90 đến 99).
Khi so sánh với các biện pháp thương mại tạm thời của 4 quốc gia nêu trên áp dụng cho các sản phẩm trong đại dịch Covid-19 (Macmap, 2021; WTO, 2021), không có biện pháp nào được áp dụng đối với các sản phẩm liên quan, dù là biện pháp để hạn chế hay tạo điều kiện cho nhập khẩu. Theo UN Comtrade (2021), Malaysia và Mexico là hai quốc gia có chính sách và áp dụng hàng rào PTQ cho các sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam.
Tuy nhiên, trong số sáu sản phẩm được miễn thuế nhập khẩu và thuế bán hàng từ Malaysia, chỉ có một sản phẩm tận dụng được ưu đãi này là dệt may (nhóm mã HS 63). Các sản phẩm liên quan đến khẩu trang, thiết bị y tế và phòng thí nghiệm, đồ bảo hộ cá nhân và sản phẩm dùng một lần không tận dụng được các chính sách ưu đãi từ Chính phủ Malaysia. Trong khi đó, cà phê và các sản phẩm gạo từ Việt Nam có thể bị hạn chế nhập khẩu vào thị trường Mexico với quy trình hỗ trợ cho nông dân quy mô vừa và nhỏ trong nước, nhưng ngũ cốc, sản phẩm gạo (HS 100630) của Việt Nam đã thành công trong năm 2020 với giá trị xuất khẩu tăng 333,27% so với năm trước đó.
3.3.3. Các nước thành viên Liên minh châu Âu
Sau CPTPP, EVFTA là hiệp định tiếp theo có hiệu lực vào năm 2020 và được các chuyên gia kỳ vọng vào sự gia tăng hàng hóa Việt Nam vào các thị trường này. Thống kê giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên của Liên minh Châu Âu trong 5 năm qua như sau:
Hình 3. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên Liên minh Châu Âu từ năm 2016 đến năm 2020
Trong giai đoạn từ 2016 tới 2020, nhiều quốc gia đã trở thành đối tác tiềm năng, ngày càng tin tưởng và lựa chọn nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam như Hungary (tăng 89,9%), Slovakia (tăng 64,2%), Ba Lan (66,3%), Crezch (65%). Malta vẫn là thị trường không ổn định, biên độ nhập khẩu hàng hóa thay đổi không đồng đều giữa năm trước và năm sau.
Trong thời gian Covid-19, hầu hết các nước vẫn duy trì thương mại với Việt Nam. Các nước có tỷ lệ lựa chọn hàng Việt Nam cao (trên 20%) gồm Estonia (34,7%), Hungary (55,8%), Luxembourg (21,3%), Malta (27,6%), Slovakia (21,6%). Những quốc gia có giá trị nhập khẩu hàng từ Việt Nam giảm mạnh (trên 20%) gồm Croatia (66,8%), Slovenia (20,5%), Tây Ban Nha (27,1%).
Theo kết quả tổng hợp báo cáo của Ủy ban châu Âu (EC), tổng lượng hàng hóa mà các nước trong Liên minh châu Âu nhập khẩu từ Việt Nam theo các ngành hàng phân theo mã HS năm 2020 được tổng kết trong hình 4 như sau:
Hình 4. Luồng thương mại theo mã HS giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam năm 2020
Việt Nam vẫn chưa được Ủy ban Châu Âu đồng ý gỡ thẻ vàng đối với thủy sản. Theo ông Trần Đình Luân - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (VOV, 2021), mặc dù Ủy ban Châu Âu đã có thêm hai đợt kiểm tra thực tế tại Việt Nam vào tháng 5 năm 2018 và tháng 11 năm 2019, nhưng họ vẫn đưa ra bốn nhóm khuyến nghị mà Việt Nam cần thực hiện và triển khai trong thời gian tới bao gồm: Khung pháp lý; Theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá, quản lý đội tàu; Chứng nhận sản lượng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản từ đánh bắt; Thực thi pháp luật.
Từ việc phân tích các dữ liệu lịch sử, cho thấy Việt Nam chưa thể bứt phá và tiếp cận các thị trường tiềm năng trong khuôn khổ hợp tác của các hiệp định CPTPP và EVFTA. Tính đến cuối năm 2020, sau gần 2 năm Việt Nam tham gia vào CPTPP và 4 tháng sau khi EVFTA có hiệu lực, sự nổi bật của hàng hóa “Made in Việt Nam” tại các thị trường này là rất khiêm tốn. Việt Nam chưa tận dụng được những ưu đãi và hỗ trợ mà hai hiệp định này mang lại, cũng như phần nào cho thấy sự chuẩn bị chưa đầy đủ của Việt Nam để đón đầu cơ hội này.
3.3.4. Vương quốc Anh
Kể từ khi Vương quốc Anh rời Liên minh châu Âu, Việt Nam và Vương quốc Anh đều sẵn sàng kết nối thương mại và dịch vụ chặt chẽ hơn. UKFTA cũng nhằm giảm thuế quan và tăng khả năng tiếp cận thị trường cho Việt Nam và Vương quốc Anh. Trending Economics đã tổng kết tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam của Vương quốc Anh từ năm 2011 đến năm 2020 như Hình 5 dưới đây.
Hình 5. Giá trị nhập khẩu từ Việt Nam của Vương quốc Anh giai đoạn 2011-2020
Theo thống kê của GTA (2021), Việt Nam có thể bị ảnh hưởng tiêu cực từ 9 chính sách can thiệp của Vương quốc Anh tới 11 mặt hàng do bối cảnh của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, thống kê thương mại từ UN Comtrade cho thấy chỉ một số mặt hàng như kim loại đồng, sắt, thép, nhôm, nắp và nắp từ nhựa có giá trị xuất khẩu giảm. Các sản phẩm y tế, cao su và các sản phẩm cho ngành may mặc (dệt, sợi đặc biệt) đã tận dụng tốt các ưu đãi từ Vương quốc Anh. Giá trị xuất khẩu của các mặt hàng này tăng lên so với năm 2019.
Qua những phân tích trên cho thấy, ngoài tác động của đại dịch Covid-19, các biện pháp PTQ đã và đang có những ảnh hưởng rõ ràng tới xuất khẩu của Việt Nam. Những biện pháp PTQ mới này sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tới các thị trường trong thời gian tới. Khi lộ trình giảm thuế được đưa ra, các quy định tiêu chuẩn về chất lượng, mỹ quan, vệ sinh, môi trường... sẽ nhiều hơn trong khi vẫn yêu cầu các nhà sản xuất, kinh doanh Việt Nam phải có giá cả cạnh tranh. Năm 2020 với bối cảnh đại dịch Covid-19 và sự gia tăng các biện pháp PTQ, Việt Nam dù có lợi thế về các sản phẩm thuộc nhóm nguyên, phụ liệu dệt may, điện tử, thực phẩm khô và thủy sản nhưng chưa thấy được sự tăng trưởng trong xuất khẩu đáng kể của những mặt hàng nói trên.
4. Khuyến nghị chính sách
Đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp và đặt ra thách thức và khó khăn to lớn chưa từng có đối với toàn bộ nền kinh tế. Tác động của đại dịch Covid-19 đối với chuỗi giá trị toàn cầu là rất lớn. Các mắt xích trung tâm của chuỗi thương mại là các quốc gia lớn có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch. Đây cũng là đối tác thương mại và thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Do đó, khi các đối tác này bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn.
Trong bối cảnh của đại dịch, nhiều quốc gia trên thế giới đã tăng cường các biện pháp PTQ để đảm bảo an toàn phòng chống dịch. Có thể những biện pháp này sẽ còn được tiếp tục áp dụng sau khi đại dịch đã được kiểm soát và sẽ gây khó khăn cho xuất khẩu của Việt Nam. Dù rằng có một sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam không liên quan trực tiếp tới sức khỏe của con người ví dụ như Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam qua thị trường này chủ yếu là dệt may, da giày, đồ gỗ, máy móc thiết bị điện tử; các sản phẩm hàng tiêu dùng liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có rất nhiều mặt hàng có vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam có liên quan trực tiếp tới các biện pháp PTQ mới được áp dụng. Nếu không có sự đầu tư chuẩn bị thích đáng, xuất khẩu của những mặt hàng này sẽ bị ảnh hưởng lớn.
Bên cạnh đó, Việt Nam ngày càng tham gia nhiều hơn vào nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với các nước và khu vực. Khi hàng rào thuế quan giảm đi, hàng rào phi thuế quan sẽ tăng lên tương ứng. Thị trường quốc tế sẽ ngày càng khắt khe hơn về các yêu cầu phòng vệ thương mại, yêu cầu kỹ thuật cho hàng hoá,...
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không nâng cao nhận thức và chuẩn bị cho yêu cầu PTQ ngày càng phức tạp hơn hơn từ các nước nhập khẩu, việc bị điều tra hoặc khởi kiện có thể xảy ra với mọi mặt hàng chứ không chỉ dừng lại ở những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Do vậy, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp nên chuẩn bị sẵn những giải pháp, phương án để ứng phó với những sự thay đổi này.
Trước hết, Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý để chuẩn bị sẵn sàng cho việc phải đáp ứng các biện pháp PTQ mới. Các điều kiện về pháp lý không chỉ để hướng doanh nghiệp xuất khẩu quan tâm và nâng cao chất lượng đáp ứng các yêu cầu mới về PTQ của nước nhập khẩu mà còn tạo tiền đề cần thiết để giúp doanh nghiệp phòng tránh và xử lý các vấn đề pháp lý có thể phát sinh khi xuất khẩu trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, một nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý ở trong nước và cơ quan ngoại giao ở nước ngoài là cập nhật liên tục chính sách pháp luật của nước xuất khẩu, đánh giá và dự báo kịp thời các nguy cơ bị kiện ở từng sản phẩm và thị trường cụ thể. Từ đó, các cơ quan này cần phải kịp thời thông tin tới doanh nghiệp và hợp tác có hiệu quả với Phòng Thương mại các nước để bảo vệ các sản phẩm của Việt Nam.
Tất cả các giải pháp đều không có ý nghĩa nếu chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp không được cải thiện, không đáp ứng được các yêu cầu mới của các nước nhập khẩu. Các doanh nghiệp cần phải được cập nhật ngay những thay đổi cũng như xu hướng của những thay đổi này nhằm có sự chuẩn bị kịp thời và nhanh chóng thay đổi công nghệ, quy trình sản xuất phù hợp, đáp ứng được những yêu cầu PTQ mới của các quốc gia nhập khẩu. Kể cả khi các quốc gia nhập khẩu dỡ bỏ một số biện pháp PTQ mới thì những nâng cấp về chất lượng của các doanh nghiệp cũng không dư thừa do chất lượng tăng lên làm năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam tăng. Doanh nghiệp cũng cần có kế hoạch sản xuất cập nhật, phù hợp hơn với thị trường xuất khẩu, thể hiện qua việc xác định rõ đặc điểm của từng sản phẩm và thị trường xuất khẩu, quan tâm đến nguyên liệu đầu vào và chất lượng, vệ sinh an toàn của sản phẩm.
Do năng lực đầu tư và tài chính cũng như các điều kiện của doanh nghiệp để đổi mới còn hạn chế, đặc biệt phải chống chịu trong thời gian dài ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 nên nhiều doanh nghiệp sẽ rất khó có thể đầu tư, nâng cấp chất lượng sản phẩm đáp ứng các yêu cầu mới về PTQ. Do vậy, sự hỗ trợ có trọng tâm của Nhà nước là hết sức cần thiết. Những lĩnh vực, mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất, có tính liên kết dọc mạnh mẽ, cần phải được tập trung hỗ trợ vừa để tăng cường xuất khẩu, vừa để kéo các lĩnh vực khác tăng lên.
Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng luôn là chính sách quan trọng hàng đầu để thúc đẩy xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng được cải thiện sẽ tăng cơ hội, giảm chi phí và rủi ro cho hoạt động đầu tư, đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp xuất khẩu để đáp ứng các biện pháp PTQ mới.
Trong trung hạn và dài hạn, Việt Nam cần có lộ trình thúc đẩy chuỗi giá trị để thu hút các ngành công nghệ cao, các công ty thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, thiết bị y tế tiên tiến và ngành chăm sóc sức khỏe. Việt Nam đang học theo mô hình tăng trưởng kinh tế hướng vào xuất khẩu của các nước công nghiệp phát triển mới nổi như Thái Lan và Hàn Quốc.
Mô hình này chủ yếu là công nghiệp nặng, hóa chất và các ngành sử dụng nhiều tài nguyên khác, vốn dựa vào dòng vốn đầu tư nước ngoài mạnh mẽ và tăng trưởng năng suất. Tuy nhiên, mô hình phát triển này sẽ gây áp lực lớn đến môi trường và xã hội và cản trở sự phát triển lâu dài.
ThS. Nguyễn Minh Phương, PGS. TS. Vũ Hoàng Nam - Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
ThS. Lê Thu Hà - Đại học Quốc gia Yokohama, Yokohama, Nhật Bản