Cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung: Một số gợi ý chính sách với Việt Nam
(VietQ.vn) - Cạnh tranh thương mại diễn ra liên tục và ngày càng gay gắt xuất hiện nhiều công cụ, biện pháp và chính sách mới. Điều này đang tạo ra những bước phát triển mới đối với Việt Nam mang lại nhiều cơ hội và thách thức, cả tác động tích cực và tiêu cực song cần chủ động, tích cực, thực chất để tận dụng tối ưu động lực cạnh tranh thương mại toàn cầu này phục vụ mục tiêu phát triển.
Đón thêm tàu bay Airbus, Vietravel Airlines tăng tốc 'làm chủ bầu trời'
Doanh nghiệp nâng cao năng suất nhờ áp dụng duy trì hiệu suất thiết bị tổng thể phiên bản 4.0
Phát triển tiêu chuẩn mới cho phương pháp kiểm tra độ cứng kim loại
Bài nghiên cứu phân tích tình hình cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung, chỉ ra mức độ gay gắt của công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại và hậu quả khó lường. Đây là kết quả tất yếu của xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng mở rộng phạm vi và gia tăng mức độ.
Việt Nam có độ mở gần 200% và xu hướng gia tăng đáng kể quy mô thương mại với phần còn lại thế giới cho nên cạnh tranh thương mại toàn cầu có tác động đáng kể đến Việt Nam. Để tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của cạnh tranh thương mại toàn cầu, Việt Nam cần có các giải pháp linh hoạt về chính sách như tăng cường hợp tác toàn diện, sâu sắc và thực chất với cả các nước lớn gắn với đa dạng hóa đối tác, tận dụng triệt để cơ hội và chuyển hóa nỗ lực thích nghi cạnh tranh thương mại toàn cầu thành động lực gia tăng sức chống chịu nội tại cùng với tích lũy năng lực đột phá phát triển thương mại trong kỷ nguyên vươn mình.
Giới thiệu
Cạnh tranh thương mại phản ánh đặc trưng và bản chất nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh thương mại thúc đẩy đổi mới sáng tạo quyết liệt, huy động, phân bổ và dịch chuyển hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển (Autorité de la concurrence). Các nguyên tắc tự do, minh bạch, công bằng của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đòi hỏi giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ, thúc đẩy cạnh tranh thương mại giữa các quốc gia trên cơ sở phát huy triệt để sự kết hợp giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh (Nguyễn Thường Lạng, 2022).
Cạnh tranh thương mại trực tiếp là 2 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới Mỹ - Trung được đặt trong phạm trù cạnh tranh chiến lược để khẳng định vị trí lãnh đạo thế giới. Điều này theo tác giả, được bộc lộ khi nền kinh tế Trung Quốc từ vị trí thứ 6 vượt lên vị trí thứ 2 về quy mô GDP năm 2010 và GDP tính theo ngang giá sức mua vượt Mỹ năm 2015.
Trung Quốc thặng dư thương mại với Mỹ ngay từ năm 1985, kéo dài liên tục 41 năm và chưa có dấu hiệu dừng lại. Điều đó càng làm tăng vị thế của Trung Quốc trên đà phát triển mạnh. Bên cạnh đó, Trung Quốc ngày càng bộc lộ sự vượt trội với Mỹ về công nghệ và cũng cạnh tranh trực tiếp với Mỹ về công nghệ cốt lõi mà trên 25 năm trước, điều này hầu như chưa được bộc lộ (Marianne và cộng sự, 2019).
Những lợi thế của Trung Quốc về thương mại vượt trội so với Mỹ thể hiện Trung Quốc là đối tác nhập khẩu lớn nhất của 61 nước trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Xu hướng Trung Quốc dẫn trước Mỹ cả về quy mô, phạm vi và tốc độ thương mại vừa ngấm ngầm, vừa công khai đe dọa vị thế lãnh đạo thương mại thế giới của Mỹ. Theo đó, càng tăng tốc cạnh tranh thương mại giữa hai quốc gia và kéo theo những thay đổi đột ngột cạnh tranh thương mại toàn cầu.
Để kiềm chế Trung Quốc trong cạnh tranh thương mại, Mỹ sử dụng nhiều loại công cụ khác nhau trong đó có công cụ đánh thuế đối ứng với 75 quốc gia xuất khẩu hàng vào Mỹ kể cả các quốc gia đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu và việc làm này áp dụng từ năm 2018 - nhiệm kỳ đầu của D. Trump. Đến 10/4/2025, Mỹ tiếp tục đánh thuế và nâng mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đến 145% và Trung Quốc đã áp dụng mức thuế 125% vào hàng hóa Mỹ xuất khẩu vào Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ lại hoãn áp dụng thuế đối với 74 nước khác trong 90 ngày để đàm phán lại cam kết thương mại, các quốc gia này đã giảm thuế đối với hàng nhập khẩu từ Mỹ cũng như tăng cường nhập khẩu hàng từ Mỹ.
Đây là biện pháp nhằm thu hẹp thâm hụt thương mại của Mỹ với phần còn lại thế giới trong khi đó Trung Quốc chưa đưa ra đề xuất đàm phán với Mỹ. Điều này làm tăng thêm mức độ kịch tính của cạnh tranh thương mại giữa 2 nước lớn, gia tốc động lực cạnh tranh thương mại toàn cầu.
Việt Nam nhập khẩu hàng lớn nhất từ Trung Quốc và xuất khẩu hàng lớn nhất vào Mỹ cho nên cạnh tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc có tác động đáng kể đến Việt Nam. Điều này đòi hỏi Việt Nam có chính sách thích ứng phù hợp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối đa hóa tác động tích cực từ cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn này. Vấn đề này được bộc lộ gay gắt từ thời điểm Mỹ tuyên bố và áp dụng thuế nhập khẩu với hàng Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ từ 10/4/2025 cho nên chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đê này tính đến 30/4/2025. Sau đó 1 tháng, cả 2 quốc gia đã đạt được sự thỏa thuận tại Thụy Sỹ về việc giảm thuế nhập khẩu xuống 110% bằng nhau và hàng Trung Quốc bị đánh thuế 35% khi xuất khẩu sang Mỹ và hàng Mỹ bị đánh thuế 15% khi xuất khẩu sang Trung Quốc. Mỹ cũng đã đàm phán với nhiều quốc gia để có mức thuế đối ứng phù hợp.
Để phân tích, đánh giá tổng quan cạnh tranh thương mại thương mại toàn cầu, trực tiếp là cạnh tranh Mỹ - Trung và tác động đến Việt Nam nhằm đề xuất gợi ý chính sách với Việt Nam, bài viết sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh với dữ liệu được thu thập từ WTO, Trung tâm thương mại quốc tế (ITC), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Bộ Thương mại Mỹ (DC), Tổng cục Thống kê Trung Quốc và các nghiên cứu chuyên sâu.
Cơ sở lý thuyết cạnh tranh thương mại
Cạnh tranh thương mại là sự ganh đua giữa các đối thủ để tranh giành lợi ích thương mại. Cạnh tranh thương mại có thể hiểu là một nội dung của phạm trù cạnh tranh nói chung gồm cạnh tranh giữa các doanh nghiệp về khách hàng, thị phần, giá cả, chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, điều kiện và thời gian giao hàng, thanh toán và các dịch vụ liên quan nghĩa là tất cả các khâu của chuỗi giá trị và thương hiệu (Porter, 1985) hoặc cạnh tranh giữa các quốc gia thông qua các yếu tố chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ ngành, điều kiện cung, cầu và các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan cùng với sự tham gia của chính phủ (Porter, 1990). Cũng theo học giả này, có 5 lực lượng hoặc áp lực cạnh tranh gồm cạnh tranh giữa các đối thủ trong 1 ngành với mục tiêu thu lợi nhuận siêu ngạch, đối thủ tiềm năng, nhà cung ứng, khách hàng và các sản phẩm bổ sung hoặc thay thế. Cạnh tranh giữa các ngành sẽ tiến hành phân phối lại lợi nhuận giữa các chủ thể nhằm thu lợi nhuận bình quân (Đại học Kinh tế Quốc dân, 1985).
Cạnh tranh còn được hiểu từ góc độ chiến lược gồm chiến lược đại dương đỏ - đối thủ tranh giành theo nguyên tắc tổng đại số lợi ích bằng 0 thậm chí bị âm nghĩa là các bên đều thiệt hại lợi ích và chiến lược đại dương xanh - các bên hợp tác để cùng thu lợi ích hài hòa và kết quả là tổng lợi ích dương (Kim W. Chan và Mauborgne R., 2004).
Canh tranh thương mại trên phạm vi toàn cầu nhằm tối đa hóa lợi ích thương mại có thể tiếp cận từ lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lợi thế quy mô hoặc lợi thế độc quyền, sự tương đồng hay khác biệt về cầu, đầu tư quốc tế và dịch chuyển vốn toàn cầu, chu kỳ sống sản phẩm hoặc khoảng cách công nghệ. Mỗi cách tiếp cận cạnh tranh đều có cách ứng xử tương ứng và đối thủ nào tận dụng hiệu quả và sáng tạo cách tiếp cận này đều có thể cải thiện được lợi thế cạnh tranh.
Cách tiếp cận hiện đại dựa chủ yếu vào sự phát triển nhanh chóng của công nghệ để tận dụng khoảng cách công nghệ luôn tồn tại khách quan, thúc đẩy cạnh tranh thương mại thành cạnh tranh công nghệ, đổi mới sáng tạo và điều chỉnh chính sách thương mại đồng bộ. Đầu tư công nghệ gia tăng, nguồn lực chất lượng cao được huy động triệt để càng làm chuyển hóa chu kỳ cạnh tranh và thay đổi đáng kể công cụ cạnh tranh thương mại toàn cầu.
Những tiêu chuẩn phát triển bền vững thâm nhập sâu vào lĩnh vực thương mại góp phần chuyển hướng thương mại theo hướng thương mại bền vững. Đây là khởi đầu của nền thương mại mới dựa trên hàng loạt tiêu chuẩn chặt chẽ gắn với việc phát triên thế hệ sản phẩm và dịch vụ đáp ứng cao nhất nhu cầu con người cũng như không để ai bị bỏ lại phía sau.
Canh tranh thương mại còn xuất phát từ lợi ích của sự hợp tác hiệu quả giữa các bên để giảm thiểu sự thiệt hại tổng thể nghĩa là không để xảy ra sự lãng phí. Sự hợp tác ngày càng được tăng cường khi sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng hay độ mở của nền kinh tế càng lớn. Lợi ích các chủ thể đan xen nhau chặt chẽ thậm chí quan hệ cộng sinh vững chắc cho nên nếu một đối tác hành động thiếu cân nhắc thận trọng khi áp dụng các công cụ hay biện pháp cực đoan trong thương mại sẽ dẫn đến sự thiếu cân bằng lợi ích. Các bên cạnh tranh trực tiếp sẽ bị thiệt hại và lợi ích tổng thể sẽ rơi vào bên thứ 3 nếu bên này hành động hợp lý vào đúng thời điểm cần thiết.
Những xu hướng nổi bật trong cạnh tranh thương mại
Xu hướng 1: Cạnh tranh thương mại bùng nổ gay gắt khi có sự xuất hiện và nổi lên mạnh mẽ và nhanh chóng của Trung Quốc đe dọa trực tiếp vị trí lãnh đạo thương mại thế giới của Mỹ. Đến năm 2025 theo dự báo của IMF, GDP toàn thế giới đạt con số 206 ngàn tỷ đô-la Mỹ tính theo ngang giá sức mua, trong đó Trung Quốc đạt con số 40 ngàn tỷ đô-la Mỹ và Hoa Kỳ 30 ngàn tỷ đô-la Mỹ (Wikipedia). Nếu độ mở của nền kinh tế thế giới 20% thì tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của toàn thế giới đạt 245 ngàn tỷ đô-la Mỹ.
Xét về tăng trưởng GDP, trong vòng 70 năm liên tục, GDP thế giới tăng trưởng có xu hướng giảm nhẹ (Hình 1) mặc dù GDP tuyệt đối vẫn tăng lên.
Hình 1: Tăng trưởng GDP thế giới giai đoạn 1960-2030
Nếu tính theo giá hiện hành GDP của Mỹ khoảng 28 ngàn tỷ đô-la Mỹ và Trung Quốc 20 ngàn tỷ đô-la Mỹ năm 2024, cả hai nền kinh tế này chiếm khoảng 1/3 GDP thế giới. Do đó, cả 2 nước này được coi là những nước lớn trong thương mại. Chính sách thương mại của 2 nước lớn này sẽ có ảnh hưởng đến toàn thế giới. Chẳng hạn, nếu Mỹ áp dung mức thuế đối ứng đối với 75 quốc gia, gây tăng giá hàng nhập khẩu trong nước của Mỹ và giảm giá hàng bị ứ đọng của 75 nước còn lại, theo đó, làm giảm giá toàn thế giới. Cạnh tranh thương mại giữa các nước nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung gây đứt gãy chuỗi cung ứng, giá cả biến động bất thường do tăng thuế và cạnh tranh quyết liệt về giá cả, tiêu thụ hàng hóa gây phân tán nguồn lực, giảm hiệu quả sử dụng thậm chí gây lãng phí đối với các bên liên quan.
Cạnh tranh thương mại - lĩnh vực trực tiếp và phản ánh cao nhất mức độ gay gắt của cạnh tranh toàn cầu được coi là chiến trường với việc thử nghiệm nhiều loại công cụ ngày càng đa dạng và sắc bén. Các quốc gia mặc dù theo đuổi xu hướng chính sách tự do hóa thương mại nhưng có xu hướng gia tăng sức chống chịu của nền kinh tế quốc gia bằng những công cụ bảo hộ như thuế quan và các biện pháp kỹ thuật, phi kỹ thuật như tiêu chuẩn xanh, phát thải ròng về 0 và tái chế, tuần hoàn.
Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) cả từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp tăng lên để tạo động lực phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số liên tục được các quốc gia coi trọng. Những nước đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát triển là Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc và EU (Hình 2). Các nước khác coi đây là thực tiễn tốt nhất có thể chủ động tiếp nhận và áp dụng.
Hình 2: Chi tiêu nghiên cứu và phát triển một số nước
Theo số liệu Hình 2, đầu tư R&D đang trở thành cuộc cạnh tranh mới và đây là động lực mới thúc đẩy tăng trưởng thương mại, theo đó, tạo áp lực cạnh tranh thương mại toàn cầu. Những kết quả thành công R&D đang được thương mại hóa kịp thời và triệt để góp phần tạo động lực mới trong thương mại. Quy mô thương mại toàn cầu gia tăng theo đó, cạnh tranh thương mại toàn cầu sẽ được mở rộng tối đa về phạm vi và tính gay gắt.
Những yếu tố về đổi mới sản phẩm chính sách phân phối tối ưu dựa vào không gian mạng và thương mại trực tuyến, chính sách giá cả gần như “chạm đáy”, thanh toán trực tuyến và các tiến bộ không ngừng trí tuệ nhân tạo (AI) thúc đẩy tăng trưởng thương mại với tốc độ đột biến. Đổi mới sáng tạo dựa trên áp dụng nhanh chóng công nghệ cao tạo ra cuộc chạy đua mới. Động lực tăng trưởng dựa vào tăng trưởng thương mại gia tốc bởi công nghệ được phát huy hiệu quả làm thay đổi quan trọng thậm chí bản chất thương mại. Đây cũng là môi trường phát triển nhiều thiên tài công nghệ thế hệ mới, nhất là những đối tương thuộc thế hệ gen Z.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc kiên trì, bền bỉ, chiến lược chuyển dần cạnh tranh thương mại sang cạnh tranh thương mại – chính trị. Các cuộc đàm phán giữa 2 quốc gia hàng đầu thế giới để hòa hoãn tạm thời, sự gay gắt ngấm ngầm đang chờ chực bùng phát bất kỳ lúc nào và ở đâu làm xuất hiện các biến thể cạnh tranh mới thậm chí ở mức độ gay gắt hơn chiến tranh thương mại (đại chiến thương mại), lan sang chiến tranh tiền tệ, chiến tranh đầu tư và chiến tranh công nghệ.
Xu hướng 2: Thể chế cạnh tranh thương mại đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy cạnh tranh
Kể từ khi có Hiệp định chung về Thương mại và thuế quan (GATT) năm 1947 đến khi thành lập WTO năm 1995 Hoa Kỳ luôn là quốc gia dẫn đầu hoạch định chính sách thương mại theo hướng cập nhật. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, Hoa Kỳ đưa ra phiên bản chính sách hiệp định thương mại tự do thế hệ mới nhưng đơn phương rút lui năm 2018, rút ra khỏi nhiều cam kết quốc tế khác liên quan đến chống biến đổi khí hậu.
Đây là cơ hội để Trung Quốc đưa ra cách tiếp cận mới về chính sách thương mại đa phương lấy Trung Quốc làm trung tâm nhưng thực tế chỉ ra, Trung Quốc chưa có cách tiếp cận gì mới đáng kể. Minh chứng cho khía cạnh này là Hiệp định đối tác kinh tế khu vực (RCEP) ký kết bởi 10 nước ASEAN, 5 nước đối tác khu vực là Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc và New Zealand vào đầu những năm 2020 nhưng chưa có sự đột phá về chính sách thương mại nếu chưa nói chưa có cam kết mạnh để tạo đột phá phát triển thương mại và đầu tư trong khu vực.
Dó đó, thể chế thương mại dựa trên nguyên tắc của WTO do Mỹ xây dựng vẫn còn nguyên giá trị, theo đó các nguyên tắc cạnh tranh tự do, minh bạch và công bằng vẫn được duy trì và phát huy. Vị thế chi phối chính sách thương mại quốc tế vẫn do Hoa Kỳ sắp đặt. Vì thế đàm phán thương mại vẫn được coi là sự lựa chọn tốt nhất cho các cuộc xử lý tranh chấp thay vì chiến tranh, trả đũa, cấm vận hay trừng phạt thậm chí sát phạt lẫn nhau chặt chẽ và cứng rắn theo kiểu “ăn miếng trả miếng”.
Xu hướng 3: Sự đồng hành chặt chẽ giữa chính phủ với doanh nghiệp để thích nghi với cạnh tranh thương mại
Cạnh tranh thương mại diễn ra gay gắt, trực tiếp là các lực lượng thị trường nhất là các công ty, tập đoàn hàng đầu để vừa tạo đột phá nhanh nhất, mới nhất, cao nhất về công nghệ, vừa tạo nguồn tài chính khổng lồ từ tiến bộ công nghệ và thu hút đáng kể tài năng công nghệ quốc gia và thế giới. Các khoản lợi nhuận khổng lồ sẽ tăng lên và những tập đoàn công nghệ với số vốn hóa lớn sẽ xuất hiện.
Do đó, các cuộc đàm phán thương mại giữa các chính phủ nhằm thao gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp sẽ góp phần hỗ trợ doanh nghiệp. Sư đồng hành của chính phủ với doanh nghiệp cao nhất để bất kỳ vướng mắc nào về chính sách đều được chính phủ tháo gỡ kịp thời thậm chí Chính phủ còn có nhiều công cụ, biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp phát triển mạnh. Vai trò Chính phủ được coi là chỗ dựa kiến tạo và phát triển lâu dài, đáng tin cậy cho doanh nghiệp bằng dịch vụ công chất lượng cao nhất, hiện đại nhất và phí dịch vụ thấp nhất, tính liêm chính, thân thiện để phát huy tính sáng tạo cao nhất của doanh nghiệp là cần thiết.
Các hình thức kết nối Chính phủ với doanh nghiệp sẽ được phát triển ở trình độ mới, đa dạng, hiệu quả, thông minh, hướng tới sự chia sẻ sâu sắc mục tiêu, đồng tốc vận hành và đồng hành phát triển.
Một số hàm ý với Việt Nam
Cạnh tranh thương mại diễn ra liên tục và ngày càng gay gắt xuất hiện nhiều công cụ, biện pháp và chính sách mới. Điều này đang tạo ra những bước phát triển mới đối với Việt Nam mang lại nhiều cơ hội và thách thức, cả tác động tích cực và tiêu cực song cần chủ động, tích cực, thực chất để tận dụng tối ưu động lực cạnh tranh thương mại toàn cầu này phục vụ mục tiêu phát triển.
Những thách thức về tụt hậu và lạc hậu, bị bỏ lại phía sau, bị loại ra khỏi thị trường do thích nghi thiếu hiệu quả là hiện tượng không thể loại trừ. Tuy nhiên, cần coi cơ hội để phát triển, cất cánh và vươn mình đến sự thanh vượng là chắc chắn.
Thứ nhất, cơ hội để tăng trưởng GDP 8% năm 2025 và tăng trưởng 2 con số từ năm 2026 (Hình 3) là có tính khả thi cao khi động lực cạnh tranh thương mại được Việt Nam tận dụng triệt để bằng chính sách ngoại giao đa dạng hóa, đa phương hóa và phương châm ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Các động lực tăng trưởng bên trong như tăng đầu tư công, phát triển kinh tế tư nhân và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được coi trọng gắn với thực hiện quyết liệt 3 đột phá chiến lược, tinh gọn bộ máy.
Hình 3: Tăng trưởng GDP Việt Nam 1985-2030
Thứ 2, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa có khả năng đạt kỷ lục 1.000 tỷ đô-la Mỹ năm 2025. Đây là con số năm ngoài kỳ vọng trong Chiến lược xuất - nhập khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030. Điều này cho thấy chính sách thương mại Việt Nam triển khai đúng hướng và Việt Nam thích nghi nhanh chóng với cạnh tranh thương mại toàn cầu, chuyển từ cạnh tranh thành động lực phát triển thương mại đột phá (Hình 4).
Hình 4: Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa Việt Nam đạt 1000 tỷ đô-la Mỹ năm 2025
Thứ 3, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh và đang bước vào giai đoạn 3 - tăng tốc thu hút đầu tư. Mỗi năm thu hút ít nhất 25-30 tỷ đô la Mỹ (Hình 4) theo đúng Nghị quyết 50 – BCT về hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút FDI. Nguồn lực này đang được hướng vào xuất khẩu cho nên sẽ tạo động lực tăng trưởng mạnh và khai thác thị trường trong nước. Các nhà đầu tư coi Việt Nam là nơi đầu tư hiệu quả. Tuy nhiên, việc tận dụng triệt để 17 hiệp định thương mại được Việt Nam ký kết chưa đáng kể, mới chỉ khoảng 30% ưu đãi.
Hình 4: Thu hút FDI đến năm 2030
Ngoài ra, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam được cải thiện liên tục cho thấy tiềm năng đổi mới sáng tạo của Việt Nam rất lớn (Hình 5).
Hình 5: Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu Việt Nam 2011-2024
Một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam
Một là, cần thương xuyên theo dõi, đánh giá tình hình cạnh tranh thương mại toàn cầu gắn với việc dự báo sát tình hình. Bên cạnh các chuyên gia, nghiên cứu và đánh giá doanh nghiệp, cần có chính sách phát triển đội ngũ thu thập thông tin thương mại toàn cầu để đội ngũ này có sứ mạng thu thập, xử lý, phân tích thông tin cạnh tranh thương mại, chính sách thương mại quốc gia và các phản ứng kỳ vọng để tạo chỗ dựa từ sớm, từ xa, từ các nước lớn, trung tâm chính tế làm chỗ dựa cho các chính sách trong nước. Coi trọng chính sách đầu tư, phát triển đội ngũ này tinh nhuệ, thông minh, có năng lực cao về công nghệ thông tin và nhạy bén với xu hướng. Bên cạnh đó, cần có chính sách đưa người Việt Nam tham gia đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong các tổ chức và định chế quốc tế thuộc các lĩnh vực.
Hai là, cần triệt để khai thác quan hệ với các nước lớn có khả năng thiết kế chính sách thương mại trong tương lai nhất là Mỹ và Trung Quốc cùng với sự đa dạng hóa triệt để để chia sẻ rủi ro có thể xảy ra do cạnh tranh thương mại. Cần có phương châm coi cạnh tranh thương mại là nguồn gốc của cơ hội phát triển mới cho nên luôn có kịch bản phù hợp nhất trong phát triển. Có chính sách quan hệ đặc biệt với các nước lớn về thương mại với Việt Nam thậm chí là cơ chế đối ngoại đặc thù.
Ba là, cần tạo ra sức chống chịu cao của nền kinh tế bằng điều chỉnh mô hình phát triển, chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, phát triển đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đổi mới sáng tạo triệt để, tăng cường chính sách hướng ngoại để nâng cấp liên tục chính sách và thực hiện triệt để cam kết. Việc tiếp tục khai thác các ưu đãi của các hiệp định thương mại cần được thực hiện quyết liệt để vừa phát huy lợi thế của ưu đãi, vừa giảm thiểu được tác động tiêu cực do chi phí cơ hội tăng lên trong tương lai.
Kiên trì thực hiện 3 đột phá chiến lược giai đoạn mới, đẩy mạnh quá trình phát triển đồng bộ hệ thống thị trường nhất là thị trường đất đai, vốn, đầu tư, khoa học - công nghệ và lao động trình độ cao. Tinh giản và tối giản bộ máy quản lý triệt để theo mô hình 2 cấp và hình thành văn hóa phát triển giai đoạn mới để tăng sức chống chịu cũng như hình thành lực lượng danh nhân có thương hiệu toàn cầu.
KẾT LUẬN
Cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung gây bất ổn, bất định, phức tạp và mơ hồ trong sự vận động kinh tế thế giới. Đây là quá trình tái định hình nền thương mại toàn cầu và khẳng định cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, công bằng hiệu quả hơn hợp tác với tốc độ bình thường. Cạnh tranh thúc đẩy huy động nguồn lực tinh hoa nhất và nguồn lực tiên tiến, thay thế nhanh chóng trạng thái phát triển.
Cạnh tranh thương mại toàn cầu bên cạnh thách thức lại mở ra rất nhiều cơ hội mới, đa dạng, nhiều hướng. Việt Nam đã tận dụng rất hiệu quả tình hình này và lịch sử đổi mới kinh tế 40 năm khẳng định sự tối ưu của lựa chọn. Trong giai đoạn mới, cạnh tranh thương mại toàn cầu chắc chắn sẽ còn rất gay gắt cho nên cần điều chỉnh chính sách ngoại giao, có cơ chế đặc thù với các nước lớn và tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng đồng bộ quyết liệt, hình thành hệ sinh thái phát triển mới gắn với cạnh tranh thương mại toàn cầu một cách hiệu quả và thông minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Autorité de la concurrence, The benefits of competition, <https://www.autoritedelaconcurrence.fr/en/the-benefits-of-competition >.
2. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết 57- NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 về Khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổ chức Thương mại thế giới, <https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/to-chucquoc-te/to-chuc-thuong-mai-the-gioi.>.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII, Nhà xuất Bản Chính trị quốc gia sự thật.
5. Đại học Kinh tế Quốc dân (1985), Kinh tế chính trị Mác- Lênin. Nhà in Đại học Kinh tế quốc dân.
6. Kim W. Chan và Mauborgne R. (2004), Chiến lược đại dương xanh, < https://hbr.org/2004/10/blue-ocean-strategy>.
7. Marianne Schneider-Petsinger, Jue Wang, Yu Jie and James Crabtree (2019). US–China Strategic Competition The Quest for Global Technological Leadership, <https://www.chathamhouse.org/sites/default/files/CHHJ7480- US-China-Competition-RP-WEB.pdf>.
8. Nguyễn Thường Lạng (2022), Phát huy tính bổ sung các lợi thế để tối đa hóa lợi ích thương mại nông sản xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn mới, < https://tapchinganhang.gov.vn/phat-huy-tinh-bo-sung-cac-loi he-de-toi-dahoa-loi-ich-thuong-mai-nong-san-xuat-khau-viet-nam-trong-giai-doan-moi- 6937.html>.
9. Porter Michael E., 1990, The Competitive Advantage of Nations. Havard Business Review, P. 78. <https://economie.ens.psl.eu/IMG/pdf/porter_1990_- _the_competitive_advantage_of_nations.pdf>.
10. Porter Michael E., 1985, Competitive Advantage, Ch. 1, pp 11-15. The Free Press. New York.
11. Ủy ban Thường vụ quốc hội (2003), Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 của Quốc hội: Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 25 tháng 02 năm 2003 về Trọng tài thương mại.
12. VNExpress, Trung Quốc ngững nhập khẩu khí LNG từ Mỹ, .
13. Wikipedia, List of countries by GDP (PPP), https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_%28PPP%29
PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng - Đại học Kinh tế Quốc dân
Nguyễn Thị Minh Phương - Đại học Pomona









