Doanh nghiệp logistics trong chuyển đổi số

author 06:53 29/07/2022

(VietQ.vn) - Bài viết làm rõ một số khái niệm liên quan đến kỹ thuật số, logistics số và đề cập đến một số công nghệ số ứng dụng trong logistics cũng như một số điểm doanh nghiệp logistics cần lưu ý trong chuyển đổi số.

Tóm tắt: Toàn cầu hóa, thói quen tiêu dùng mới đang biến logistics thành một yếu tố quan trọng kết nối các giao dịch kỹ thuật số và việc phân phối hàng hóa tương ứng. Logistics là công cụ kết nối các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế như cung cấp, sản xuất... góp phần tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông trong phân phối hàng hóa, nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm từ đó giúp thúc đẩy thương mại và hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Do đó, ngành công nghiệp logistics phải thích ứng với thời đại kỹ thuật số mới này để phát triển, và không chỉ để đối phó với những mối đe dọa sắp xảy ra đối với các công ty không thích ứng, mà đặc biệt là vì những lợi thế cạnh tranh có được bởi các doanh nghiệp biết cách tận dụng được hầu hết các cơ hội mới này. Bài viết làm rõ một số khái niệm liên quan đến kỹ thuật số, logistics số và đề cập đến một số công nghệ số ứng dụng trong logistics cũng như một số điểm doanh nghiệp logistics cần lưu ý trong chuyển đổi số.

1. Một số khái niệm liên quan

Số hóa (Digitization)

Hiện nay các doanh nghiệp chuyển lưu trữ hồ sơ từ dữ liệu trên giấy sang dạng tệp máy tính kỹ thuật số. Quá trình chuyển đổi thông tin từ analog ở thế giới thực sang kỹ thuật số gọi là số hóa. Đây có thể được gọi là bước tin học hóa, là một thành phần của quá trình chuyển đổi số. Số hóa có tầm quan trọng rất lớn đối với việc xử lý, lưu trữ và truyền dữ liệu, bởi vì nó “cho phép thông tin của tất cả các loại ở mọi định dạng được thực hiện với cùng hiệu quả và cũng được xen kẽ”.

Mặc dù dữ liệu được lưu trữ ở dạng vật lý (analog data) thường ổn định hơn, nhưng dữ liệu số có thể dễ dàng được chia sẻ và truy cập hơn và theo lý thuyết, có thể được truyền đi vô thời hạn, không bị mất mát qua thời gian và qua các lần sao chép dữ liệu, miễn là nó được chuyển sang các định dạng mới, ổn định. Số hóa là bước đầu tiên của doanh nghiệp trong việc tạo ra giá trị đáng kể trong dữ liệu số hóa sẵn sàng được phân tích. Nó cũng giúp lưu trữ một số lượng đáng kể các tài liệu có ý nghĩa, hồ sơ lịch sử và tác phẩm nghệ thuật quý giá khỏi bị phá hủy và lãng quên.

Ứng dụng kỹ thuật số/Vận dụng số hóa (Digitalization)

Khái niệm số hóa và ứng dụng kỹ thuật số/vận dụng số hóa là hai thuật ngữ gần và thường bị sử dụng lẫn nhau trong rất nhiều tài liệu. Tuy nhiên số hóa là chuyển hóa một quá trình thay đổi dạng tương tự (analog) thành một dạng kỹ thuật số mà không có bất kỳ thay đổi nào về mặt thực thể đối với chính quá trình đó. Số hóa chỉ đơn giản là tự động hóa và/hoặc số hóa các quy trình kinh doanh dựa trên số hóa giấy (qua đó loại bỏ các quy trình dựa trên giấy) và cùng với đó là loại bỏ lao động thủ công khi nó không khả thi hoặc không hiệu quả/hiệu suất.

Trong khi, ứng dụng kỹ thuật số là việc sử dụng thông tin đã được số hóa để làm cho các cách thức hoạt động đơn giản và hiệu quả hơn. Ứng dụng kỹ thuật số không phải là về việc thay đổi cách bạn kinh doanh hoặc tạo ra các loại hình doanh nghiệp mới. Đó là về việc tiếp tục, nhưng nhanh hơn và tốt hơn thông qua việc dữ liệu của bạn có thể truy cập ngay lập tức và không bị kẹt ở đâu đó trong kho tài liệu giấy.

Chuyển đổi số (Digital transformation)

Chuyển đổi số là khái niệm ra đời trong thời đại internet bùng nổ, đang trở nên phổ biến trong thời gian gần đây, mô tả việc ứng dụng công nghệ số (digitalize) vào tất cả khía cạnh của doanh nghiệp. Nếu đạt hiệu quả, hoạt động này sẽ thay đổi toàn diện (transformation) cách thức mà một doanh nghiệp hoạt động, tăng hiệu quả hợp tác, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho khách hàng.

Chuyển đổi số là quá trình hưởng lợi hoàn toàn từ tiềm năng kỹ thuật số to lớn trong một doanh nghiệp. Đó là một sự thay đổi phức tạp đối với công ty, ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của hoạt động kinh doanh, bao gồm mô hình, quy trình nội bộ và bên ngoài, quản lý ở tất cả các cấp, cũng như các sản phẩm và dịch vụ của công ty. Chuyển đổi số là một hành trình với nhiều mục tiêu trung gian được kết nối, cuối cùng, cố gắng tối ưu hóa liên tục qua các quy trình, bộ phận và hệ sinh thái kinh doanh.

Hình 1: Từ số hóa, vận dụng số hóa đến chuyển đổi số. 

Logistics

Có nhiều quan điểm khác nhau về logistic, nhưng các khái niệm về dịch vụ logistics có thể chia làm 2 nhóm:

Nhóm định nghĩa hẹp coi logistics gần như tương tự với hoạt động vận chuyển hàng hóa (Luật Thương mại 2005). Tuy nhiên, cũng cần chú ý là định nghĩa trong Luật Thương mại có tỉnh mở, thể hiện trong đoạn in nghiêng “hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa”. Khái niệm logistics trong một số lĩnh vực chuyên ngành cũng được coi là có nghĩa hẹp, tức là chỉ trong phạm vi, đối tượng của ngành đó. Theo trường phái này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Dịch vụ logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics theo đó không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức.

Nhóm định nghĩa rộng có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay của người tiêu dùng cuối cùng. Theo đó, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiêu vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuế hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn quản lý... với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng háo tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ mang tính “trọn gói” cho các nhà sản xuất. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hóa cao. Ví dụ, khi một nhà cung cấp dịch vụ logistics cho nhà sản xuất thép, anh ta sẽ chịu trách nhiệm cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi thép, tư vấn cho doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kĩ năng quản lý và lập các kênh phân phối, các chương trình marketing, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng.

Logistics số (digital logistics) nhằm mục đích đơn giản hóa và tăng tốc quá trình quản lý giao thông, hàng hóa và vận tải, gồm một hoặc hơn một trong 3 tính năng sau: (i) sự kết hợp của logistics và công nghệ; (ii) công nghệ cộng tác dựa trên nền tảng mạng (web) giúp mở rộng trên toàn bộ chuỗi cung ứng; và (iii) tích hợp chặt chẽ thông tin kho hàng, vận tải và người tiêu dùng cuối cùng, đồng thời tạo sự minh bạch hoàn toàn trong toàn chuỗi cung ứng.

Nói một cách đơn giản thì logistics số chính là việc ứng dụng số hóa trong ngành logistics hay chính là quá trình chuyển đổi số của ngành logistics.

2. Ứng dụng công nghệ số trong ngành logistics

Sự cộng sinh giữa thuật toán và con người sẽ tạo ra cơ hội cải thiện ngành logistics. Ngành logistics đã thay đổi đáng kể trong 10 năm qua và đang trong giai đoạn chuyển đổi số. Động lực để chuỗi cung ứng phát triển chính là thương mại điện tử bùng nổ, cũng như tác động đến từ đại dịch Covid-19. Từ điện toán đám mây, robot, AI, (trí tuệ nhân tạo) đến IoT (internet vạn vật)..., các chuyên gia logistics phải hiểu hết làn sóng công nghệ đột phá, thúc đẩy công nghệ phát triển nhanh hơn. Ngay cả khi thương mại điện tử toàn cầu bùng nổ, blockchain vẫn tiếp tục được xem là một yếu tố thúc đẩy chuỗi cung ứng và logistics.

Một doanh nghiệp thành công trong lĩnh vực logistics phải phụ thuộc vào độ tin cậy. AI luôn giải quyết những thách thức hoạt động phức tạp nhất như: Tối ưu hóa tuyến đường, dự đoán chính xác năng lực và nhu cầu, tự động hóa vật lý thông minh... Ngành công nghiệp logistics cũng đang đón nhận sự xuất hiện của robot tự động hóa quy trình làm việc (RPA), AI cho phép RPA giải quyết các định dạng và quy trình dữ liệu phi cấu trúc, phức tạp. Theo một nghiên cứu của hiệp hội thương mại logistics MHI, 79% chuyên gia kỳ vọng AI sẽ trở thành năng lực cốt lõi của chuỗi cưng ứng vào năm 2022, 88% tin rằng nó sẽ giúp cải thiện khả năng quản lý rủi ro và dự đoán.

Khi các công ty logistics số hóa các quy trình, họ nhận thấy tính minh bạch và linh hoạt sẽ thúc đẩy nhu cầu chuyển đổi số hơn nữa. Mặt khác, nhờ ứng dụng AI vào quá trình làm việc, khách hàng sẽ đánh giá cao lợi ích của việc giao hàng nhanh, chất lượng dịch vụ của công ty logistics đó. Những điều này khuyến khích các công ty ứng dụng nhiều công nghệ mới hơn để tăng cường và cải thiện quy trình.

Bảng 1: Một số công nghệ số ứng dụng trong ngành logistics 

Ngành logistics khai thác các khả năng mà IoT mang lại vì có thể được hưởng lợi từ nhiều cơ hội tiềm năng. Tuy nhiên, bản thân IoT không phải là một công nghệ, mà nó xác định một khuôn khổ mới trong đó mọi người, doanh nghiệp và tổ chức tương tác với môi trường xung quanh. Do đó, IoT được tăng cường bởi các công nghệ trong bảng trên, chẳng hạn như thiết bị di động, hệ thống GPS và chip RFID...

Quản lý kho hàng tối ưu là một khía cạnh quan trọng đối với ngành logistics, bao gồm cả kho tàng cũng như các khu vực cảng và sân bay. Có một số yếu tố mà khi người quản lý không đúng cách có thể tác động tiêu cực đến các lô hàng, dẫn đến lợi nhuận và sự hài lòng của khách hàng giảm. IoT có thể cải thiện việc quản lý kho hàng bằng cách làm cho các tài sản vật lý lên “tiếng nói kỹ thuật số”. Một mặt, các kho hàng số hóa có thể chia sẻ thông tin của họ trên Đám mây để đảm bảo rằng sản phẩm phù hợp ở đúng nơi vào đúng thời điểm. Mặt khác, việc di chuyển của người và phương tiện trong khu vực nhà kho có thể được tối ưu bằng cách giảm số lượng chuyến đi không cần thiết, giảm mức tiêu thụ nhiên liệu và ngăn ngừa ùn tắc tại một số khu vực nhất định vào những thời điểm nhất định. Tất cả điều này có thể được tối ưu hóa với IoT bằng cách trang bị cho tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình với hệ thống RFID để chúng có thể giao tiếp với nhau, do đó giảm mức độ tương tác của con người để có các hoạt động hiệu quả và chính xác hơn.

Trong lĩnh vực logistics, thành công bao gồm việc giao hàng đúng thời hạn và đảm bảo hàng hóa trong tình trạng tốt. Để làm như vậy, các công ty phải tối ưu hóa việc quản lý giao hàng và cần có sẵn một số hệ thống lập kế hoạch tính đến nhiều yếu tố, chẳng hạn như khoảng cách giữa các điểm giao hàng, sức chứa của phương tiện, vị trí chất hàng, sở thích của khách hàng,... Tuy nhiên, IoT bổ sung một khía cạnh mới theo nghĩa không còn là vấn đề chỉ đơn giản là biết vị trí của mọi phương tiện trong đội vận chuyển (điều này đã được xử lý bởi hệ thống GPS), mà là tích hợp thông tin này trong môi trường và đưa ra các quyết định liên tục trong thời gian thực. Thông tin được cung cấp bởi các phương tiện khác, đường sá, đèn giao thông và các mốc hàng hải (trong trường hợp vận tải biển), trong số các khía cạnh khác, được sử dụng để điều chỉnh kế hoạch phương tiện trong thời gian thực và liên tục tối ưu hóa lại các tuyến đường.

IoT còn có thể ứng dụng trong nhiều việc khác không chỉ là quản lý tuyến đường; quản lý vận chuyển, còn nhiều yếu tố khác ví dụ như các cảm biến được tích hợp trong xe để chỉ ra nhu cầu bảo dưỡng cho các bộ phận cụ thể, hệ thống an toàn trên xe giúp giảm khả năng xảy ra sự cố do lỗi của con người,... Các khả năng mới xuất hiện hằng ngày và ngành logistics phải khai phá chúng vì có thể được hưởng lợi từ nhiều cơ hội tiềm năng.

Việc sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông mới trong ngành vận chuyển và logistics cũng có thế: (i) Tạo điều kiện hỗ trợ bổ sung cho người vận chuyển và người bốc xếp lựa chọn dịch vụ phù hợp nhất. Cùng với đó, các nền tảng trực tuyến cũng cung cấp thêm thông tin về các dịch vụ hiện có ở tất cả các mã vận chuyển và cho phép người dùng truy cập thông tin thời gian thực về việc giao hàng hóa; (ii) Tối ưu hóa việc quản lý các quy trình vận chuyển bằng cách có thông tin thời gian thực về sự chậm trễ, sự cố,... Thông tin này giúp bạn có thể phản ứng và sắp xếp việc thay đổi lộ trình hoặc chuyển sang phương thức vận chuyển khác,... và (iii) Giảm chi phí hành chính bằng cách kết hợp các tài liệu điện tử.

Việc cải thiện sự hài lòng của khách hàng ngày càng trở nên quan trọng, liên quan đến việc giao hàng nhanh hơn và có thể đến được mọi nơi. Điều này đòi hỏi những thay đổi nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ chuyên về một số loại hình hoạt động hoặc khách hàng. Việc phân tích dữ liệu lớn đang đóng một vai trò rất quan trọng. Các nhà cung cấp dịch vụ logistics có lượng dữ liệu khổng lồ liên quan đến thói quen và sở thích của khách hàng, trong số các khía cạnh khác, và điều này có thể giúp họ dự đoán bằng cách tạo ra các mô hình kinh doanh mới thích ứng với những nhu cầu này để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu. Các doanh nghiệp logistics có thể áp dụng hai loại giải pháp: (i) B2B (Business to Business): Giải pháp này sử dụng internet để tối ưu hóa các mối quan hệ hoạt động giữa các công ty. Các giải pháp chuỗi cung ứng, giải pháp nhằm cải thiện dịch vụ khách hàng (CRM), lưu trữ các ứng dụng của bên thứ ba (APS) và thị trường là những nhóm dịch vụ chính cung cấp B2B; và (ii) B2C (Business to Consumer): Giải pháp này sử dụng các công nghệ thương mại điện tử để tối ưu hóa các mối quan hệ hoạt động giữa các công ty và người tiêu dùng cuối cùng.

3. Lưu ý đối với doanh nghiệp logistics trong chuyển đổi số

Chuyển đổi số đối với doanh nghiệp logistics là quá trình tất yếu

Ngành logistics chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, tuy nhiên chịu sự chi phối của 3 yếu tố chính: các cơ hội công nghệ, nhu cầu khách hàng mới và kỹ năng kinh doanh.

Hình 2: Những xu hướng chính ảnh hưởng tới ngành logistics 

Sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ mới và bản chất giá cả phải chăng của chúng thúc đẩy mọi người áp dụng chúng ở mức độ lớn, khiến cuộc sống trở nên dễ dàng hơn. Điều này buộc các thực thể và hệ sinh thái phải chuyển đổi để cải thiện vị thế cạnh tranh và đôi khi thậm chí chỉ là để duy trì vị thế. Xã hội đã thay đổi cách chia sẻ kiến thức và cách chúng ta tương tác với môi trường xung quanh, và điều này ảnh hưởng đến mọi người và đặc biệt là các tổ chức. Khách hàng hay còn được gọi là người tiêu dùng cuối có nhiều sự lựa chọn nhờ quyền tiếp cận với ngày càng nhiều nhà cung cấp, giải pháp và dịch vụ. Khách hàng có được nhiều quyền lực và sự cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, do đó thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới như những khía cạnh tạo ra sự khác biệt đối với doanh nghiệp, làm cho các tổ chức, doanh nghiệp ngày càng trở nên lo ngại, có cảm giác cấp bách trong việc hiểu những gì đang xảy ra và cách giải quyết những thách thức mới nảy sinh. Công nghệ đóng một vai trò quan trọng giúp các tổ chức, doanh nghiệp giải quyết các quan ngại trên, đặc biệt là đối với doanh nghiệp logistics. Chuyển đổi số, công nghệ mới và dữ liệu lớn có tiềm năng thay đổi cách tổ chức và quản lý các luồng hàng hóa và giao thông, chúng tạo ra các cơ hội kinh doanh và mở đường cho sự đổi mới, các dịch vụ và mô hình kinh doanh mới. Nó cho phép hợp tác giữa các bên tham gia chuỗi cung ứng, khả năng hiển thị chuỗi cung ứng tốt hơn, quản lý thời gian thực các luồng lưu thông và hàng hóa, đơn giản hóa và giảm gánh nặng hành chính, đồng thời cho phép sử dụng cơ sở hạ tầng và nguồn lực tốt hơn, do đó tăng hiệu quả và giảm chi phí.

Thương mại điện tử đang bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ chưa từng có và xu hướng này sẽ bùng nổ với sự phát triển của thương mại điện tử di động. Người tiêu dùng có thể tìm mua online mọi thứ, từ đồ cổ cho tới nội thất, hàng tạp hóa, thiết bị điện tử... và người bán có thể bán mọi lúc mọi nơi, chuỗi cửa hàng bán lẻ cũng được đồng bộ hóa cùng hệ thống online. Trong xu hướng dịch chuyển từ thương mại truyền thống sang thương mại điện tử của kinh tế thế giới hiện đại, ngành dịch vụ logistics cũng có những thay đổi nhanh chóng và theo kịp xu hướng đó. Kết quả là ngành dịch vụ logistics điện tử (e-Logistics) ra đời. Dịch vụ logistics điện tử, về căn bản cũng là dịch vụ logistics, nhưng sự luân chuyển của dòng thông tin giữa các mắt xích – từ nhà cung cấp đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng – được thực hiện thông qua môi trường internet.

Các doanh nghiệp buộc phải thích ứng với điều kiện mới. Sự chuyển đổi này tập trung vào các trụ cột của mối quan hệ khách hàng và các hoạt động, mặc dù tất cả các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng. Do đó, chuyển đổi kỹ thuật số là một hành động phòng thủ và nó cũng tạo cơ hội cho các khái niệm kinh doanh mới, tạo doanh thu và cải thiện hiệu quả. Các công ty thực hiện thành công quá trình chuyển đổi sẽ có lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Thích ứng của doanh nghiệp logistics với quá trình số hóa

Kỷ nguyên số mới được xác định bởi hồ sơ người dùng mới kết hợp các khả năng số. Do đó, các doanh nghiệp phải hiểu được đặc điểm của khách hàng mới. Các đặc điểm của người dùng mới trong thời đại số đang khiến các tổ chức đắm chìm trong quá trình chuyển đổi số nhằm điều chỉnh các doanh nghiệp với thực tế xã hội, kinh doanh và công nghệ mới được định hình bởi cuộc sống kết nối của kỷ nguyên số. Mọi người đã áp dụng nền văn hóa số và mong muốn tương tác với môi trường xung quanh bằng cách sử dụng các công cụ và giải pháp kỹ thuật số mới cho phép tiếp cận nhanh chóng, phổ biến và tự phục vụ. Các khía cạnh như huy động khách hàng có tầm quan trọng trong tiếp thị và sử dụng. Lần đầu tiên, người tiêu dùng, khách hàng cá nhân đã đi trước các tổ chức một bước trong việc sử dụng các công nghệ mới. Trong bối cảnh này doanh nghiệp logistics cần học cách thích ứng tốt nhất với quá trình số hóa logistics. Cụ thể, doanh nghiệp cần lưu ý đến những điểm sau:

+ Sự tham gia của yếu tố con người, vì cần có sự thay đổi văn hóa làm nổi bật tinh thần đồng đội và cam kết của ban lãnh đạo cấp cao trong toàn bộ quá trình thay đổi logistics liên quan đến việc phân cấp hoạt động. Khi các phương pháp tiếp cận số hóa ngày càng trở thành trọng tâm của chuỗi cung ứng và quy trình logistics, các công ty đang quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh con người. Các hệ thống kỹ thuật số cần con người xây dựng, duy trì và cải tiến. Hoạt động của chuỗi cung ứng cũng đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và liên tục giữa con người với máy móc. Ngược lại, nếu không chú trọng đến con người, các doanh nghiệp logistics sẽ gặp phải nhiều vấn đề. Từ việc thiếu hụt nhân sự có kĩ năng cho đến việc hoàn toàn không sử dụng được các công nghệ mới. Trong những năm tới, các công ty cần áp dụng phương pháp đổi mới lấy con người làm trung tâm.

+ Tầm nhìn chiến lược của toàn bộ mạng lưới logistics phù hợp với chiến lược của toàn hệ thống, từ đó nâng cao nhận thức về các biến thể của thị trường.

+ Tương tác của các doanh nghiệp tạo thành mạng lưới, với các mối quan hệ dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác bí mật và lâu dài, và bao gồm tất cả các thành phần trong việc ra quyết định.

+ Thiết lập các mối quan hệ mở và trực tiếp giữa các thành phần mạng, và tích hợp các quy trình, đặc biệt là lập kế hoạch và dự báo.

+ Tập trung sản xuất tại các điểm cụ thể phục vụ thị trường địa lý rộng lớn.

+ Cung cấp sản phẩm dựa trên các mặt hàng đa dạng và chất lượng.

+ Việc sử dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong lĩnh vực logistics sẽ giảm thiểu tầm quan trọng của vị trí địa lý của công ty, đóng vai trò như một yếu tố chính trong việc hình thành một phần của mạng lưới kinh doanh.

+ Chia sẻ và phân phối kiến thức trở thành yếu tố then chốt của hoạt động logistics.

+ Logistics ngược: ICT cho phép những cải tiến lớn trong cách các công ty quản lý logistics ngược. Các quy trình thông tin được tạo ra sau khi một sản phẩm đã được tiêu thụ ngày càng chính xác và giúp bạn có thể quản lý các luồng vật chất này.

Yếu tố pháp lý trong chuyển đổi số

Các nền tảng kỹ thuật số kết nối các nhà cung cấp dịch vụ logistics và khách hàng của họ đang bùng bổ. Trong một số năm gần đây, các nền tảng internet như Teleroute và TimoCom đã kết nối những người vận chuyển đường bộ với các chủ hàng. Ngày nay, một loạt các nền tảng logistics số được sử dụng, chẳng hạn như Quicargo, Synple, Twill và Cogoport. Một số trong số này cũng cung cấp nền tảng thông qua ứng dụng di động. Ví dụ, Uber đã tung ra nền tảng kỹ thuật số “Uber Freight” ở Hà Lan vào năm 2019, lần đầu tiên ra mắt ứng dụng này ở Mỹ hai năm trước đó. Một nền tảng số kết nối các nhà cung cấp dịch vụ logistics như người vận chuyển, người giao nhận hàng hóa, người môi giới tàu biển và NVOCC (NVOCC – Non - Vessel Operating Common Carrier – Người vận tải không có tàu) với khách hàng doanh nghiệp như người bán hoặc người mua hàng hóa, cũng như với những người vận chuyển và giao nhận hàng hóa khác. Thông qua nền tảng này, khách hàng có thể đặt dịch vụ vận chuyển và/hoặc các dịch vụ liên quan như thông quan, đóng gói hoặc đóng gói lại và lưu kho. Khi áp dụng các nền tảng nên cân nhắc kỹ lưỡng vị trí pháp lý của chúng và do đó, cần tìm hiểu pháp luật dân sự và luật công của các nước áp dụng đối với nhóm các công ty này.

Nhiều quy định bắt buộc của các công ước quốc tế và luật quốc gia được áp dụng cho việc vận chuyển hàng hóa. Ví dụ, nói chung, một người chuyên chở không thể loại trừ trách nhiệm theo hợp đồng về thiệt hại đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Các nền tảng thường không tự thể hiện mình là nhà cung cấp dịch vụ và thực sự khả năng chúng được coi là như vậy từ góc độ pháp lý là rất nhỏ. Các nền tảng thông thường sẽ không chấp nhận nghĩa vụ vận chuyển hàng hóa từ A đến B. Thường chỉ người vận chuyển và khách hàng ký kết hợp đồng vận chuyển với nhau mà không cần nền tảng và một bên trong hợp đồng đó. Tuy nhiên, có nhiều khả năng nền tảng hoạt động như một nhà giao nhận hàng hóa. Theo Luật pháp Hà Lan, người giao nhận hàng hóa thay mặt người vận chuyển ký kết hợp đồng vận chuyển với người chuyên chở. Nó sẽ phụ thuộc vào mô hình kinh doanh của nền tảng cụ thể có đúng như vậy hay không. Nếu nền tảng phục vụ cả khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ logistics và chỉ kết nối họ, các hoạt động của nền tảng phù hợp nhất với khái niệm “dịch vụ trung gian” theo nghĩa của Điều 7: 425 Bộ luật Dân sự Hà Lan. Sau đó, nền tảng này phục vụ hai khách hàng (khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ logistics). Luật pháp Hà Lan cho phép điều này miễn là không có lợi ích xung đột.

Một nền tảng ký kết hợp đồng với tư cách là người giao nhận hoặc người trung gian có thể không phải chịu trách nhiệm bắt buộc đối với những thiệt hại phát sinh trong quá trình vận chuyển, nhưng nó có thể chịu trách nhiệm nếu nó không thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng giao nhận hoặc trung gian- ví dụ: nếu nó kết nối khách hàng với bên vận chuyển gian lận, không tồn tại. Những vấn đề về luật dân sự này có thể được giảm thiểu theo hợp đồng.

Các doanh nghiệp cần lưu ý đến vị trí pháp lý của các nền tảng từ góc độ luật công. Ở một số nước châu Âu, các công ty đóng vai trò là người vận chuyển hoặc giao nhận hàng hóa cần có giấy phép để thực hiện dịch vụ. Nhìn chung như vậy, tuy nhiên không phải là trường hợp ở Hà Lan. Một phán quyết mới đây của Tòa án Công lý châu Âu liên quan đến ứng dụng taxi Uber, khi Tòa án cho rằng Uber không chỉ là một nền tảng số cung cấp các dịch vụ trung gian mà còn là một nền tảng cung cấp “các dịch vụ trong lĩnh vực vận tải”, như được quy định trong Quy định (EU) số 2006/123. Tòa án đã tính đến một thực tế rằng, nếu không có ứng dụng Uber, các tài xế không chuyên nghiệp sẽ không cung cấp dịch vụ vận tải và người dùng sẽ không sử dụng dịch vụ do những tài xế đó cung cấp. Ngoài ra, Uber thực hiện một quyền kiểm soát nhất định đối với việc thực hiện các dịch vụ vận tải, chẳng hạn như giá cước tối đa và chất lượng của phương tiện và tài xế. Vẫn còn phải xem liệu các dịch vụ được cung cấp bởi các nền tảng số khác có được mô tả là “dịch vụ trong lĩnh vực vận tải” hay không. Điều này sẽ phụ thuộc nhiều vào bản chất chính xác của các dịch vụ được cung cấp.

Kết luận

Trong thời đại ngày nay, logistics đang dần đạt được tầm quan trọng mà nó đáng có. Với khối lượng giao dịch và nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, các nhà cung cấp dịch vụ logistics đã phải trở nên linh hoạt hơn, nhanh chóng và đáng tin cậy hơn, cũng như tạo ra các giải pháp giao hàng mới và sáng tạo cho phép họ đáp ứng kỳ vọng hiện tại của khách hàng: (i) Thời gian giao hàng đáng tin cậy; (ii) Hoạt động nhiều giờ; (iii) Giao hàng chất lượng; (iv) Theo dõi thời gian thực; (v) Dịch vụ linh hoạt và cá nhân hóa; và (vi) Xử lý trả hàng nhanh chóng.

Số hóa, công nghệ mới và dữ liệu lớn có tiềm năng thay đổi cách tổ chức và quản lý các luồng hàng hóa và giao đông, chúng tạo ra các cơ hội kinh doanh và mở đường cho sự đổi mới, các dịch vụ và mô hình kinh doanh mới. Nó cho phép hợp tác giữa các bên tham gia chuỗi cung ứng, khả năng hiển thị chuỗi cung ứng tốt hơn, quản lý thời gian thực các luồng lưu thông và hàng hóa, đơn giản hóa và giảm gánh nặng tài chính, đồng thời cho phép sử dụng cơ sở hạ tầng và nguồn lực tốt hơn, do đó tăng hiệu quả và giảm chi phí.

Đầu tư công nghệ và đổi mới, chuyển đổi số và chất lượng phân phối là những yếu tố thành công chính cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics (đặc biệt là áp dụng cho thương mại điện tử). Bên cạnh đó, do việc chuyển đổi số vẫn còn nhiều vấn đề mới nảy sinh chưa được điều chỉnh, thống nhất bởi pháp luật các quốc gia, khu vực nên các doanh nghiệp logistics cũng cần phải lưu ý trong quá trình chuyển đổi số, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ngành công nghiệp logistics phải thích ứng với thời đại chuyển đổi số để phát triển. Không chỉ vì những mối đe dọa sắp xảy ra, các công ty còn phải thực hiện điều này để tăng lợi thế cạnh tranh, tận dụng tối đa những cơ hội.

Ths Hồ Thanh Hương - Viện Nghiên cứu châu Âu

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang