Ngành than tăng tốc chuyển đổi số, hướng tới sản xuất xanh và bền vững

author 15:41 28/08/2025

(VietQ.vn) - Để bắt nhịp xu thế phát triển, ngành than đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, vừa nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo an toàn lao động, vừa thực hiện mục tiêu “xanh hóa” trong khai thác và chế biến than.

Sự kiện: Chuyên đề: NÂNG CAO NĂNG SUẤT CHẤT LƯỢNG

Hiện đại hóa ngành than

Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã dành hơn 1.200 tỷ đồng triển khai Đề án chuyển đổi số giai đoạn 2020-2025. Trọng tâm là số hóa quy trình sản xuất, quản lý, điều hành và áp dụng công nghệ tự động hóa, robot trong hầm lò. Các giải pháp này giúp tăng năng suất, giảm rủi ro và cải thiện đáng kể điều kiện làm việc cho thợ mỏ.

Nhiều doanh nghiệp thành viên cũng chủ động đi đầu trong ứng dụng công nghệ. Tại Công ty CP Than Hà Tu, hồ sơ thiết bị được số hóa toàn bộ, từ theo dõi giờ hoạt động, lịch bảo dưỡng cho tới tình trạng kỹ thuật. Hệ thống định vị GPS giúp kiểm soát lộ trình di chuyển máy móc, tối ưu vận hành, tiết kiệm chi phí và giảm hao mòn.

 Ngành Than đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới vào khai thác, sản xuất kinh doanh.  Ảnh: Hoàng Yến

Công ty Than Thống Nhất áp dụng hàng loạt phần mềm quản lý như E-office tích hợp chữ ký số, phần mềm ca lệnh sản xuất, kế toán ESOFT online, quản lý vật tư trên nền tảng web, phần mềm thiết kế khối lượng mỏ (HMO), hệ thống kiểm soát khí mỏ MineSCADA hay kênh truyền thông trực quan E-Home. Những giải pháp này đã góp phần nâng cao năng lực quản lý, giảm thiểu sai sót và tăng hiệu quả điều hành sản xuất.

Đặc biệt, tại Công ty Than Dương Huy, việc triển khai “3 hoá” (cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa) đã tạo nên bước đột phá. Máy đào lò EBH-45, robot khoan neo, băng tải cong, monoray khí nén… thay thế phần lớn công việc thủ công nặng nhọc. Công nhân chuyển sang vai trò vận hành, giám sát, giảm tiếp xúc với môi trường độc hại. Các lò chợ cơ giới hóa đồng bộ và mạng lưới camera giám sát cũng giúp nâng cao an toàn, giảm nguy cơ tai nạn hầm lò.

Ông Đào Trung Huy - Chủ tịch Công đoàn Công ty Than Dương Huy khẳng định: “Việc áp dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn cải thiện điều kiện làm việc, giảm sức lao động, tăng thu nhập, đảm bảo an toàn cho công nhân. Thợ lò ngày nay không chỉ là lao động phổ thông mà còn là những người làm chủ công nghệ, tiếp cận môi trường làm việc hiện đại hơn.”

Sản xuất xanh, trụ cột phát triển bền vững

Cùng với chuyển đổi số, ngành than cũng chú trọng “xanh hóa” hoạt động khai thác. TKV đầu tư các dây chuyền hiện đại, cơ giới hóa khai thác hầm lò và cam kết dừng khai thác than lộ thiên tại Hạ Long, Cẩm Phả (Quảng Ninh) theo đúng lộ trình. Đất đá thải mỏ được tận dụng làm vật liệu san lấp, vừa giảm áp lực bãi thải, vừa mang lại giá trị kinh tế.

Đến nay, TKV đã phủ xanh hơn 1.200 ha bãi thải, với kế hoạch trồng mới thêm 1.000 ha/năm từ 2025. Các khu vực bãi thải ven đô thị và quốc lộ 18A sẽ được hoàn nguyên, trồng cây xanh, góp phần cùng Quảng Ninh thúc đẩy mục tiêu chuyển dịch từ “kinh tế nâu” sang “kinh tế xanh”.

Mỗi năm, TKV dành khoảng 1.000 tỷ đồng cho công tác bảo vệ môi trường, trong đó tập trung xanh hóa bãi thải mỏ, đầu tư băng tải thay thế xe vận chuyển, vận hành các trạm xử lý nước thải, nhà máy xử lý chất thải nguy hại. Ngoài ra, TKV còn thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, khai thác chuỗi giá trị gia tăng và đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học về môi trường.

Những nỗ lực này không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực của khai thác than mà còn nâng cao hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp, tạo niềm tin với cộng đồng và người lao động.

Có thể thấy, công nghệ đang trở thành “đòn bẩy” để ngành than hiện đại hóa toàn diện. Từ sản xuất đến quản lý, từ bảo vệ môi trường đến chăm lo đời sống người lao động, chuyển đổi số và sản xuất xanh đang đưa ngành than tiệm cận mô hình “mỏ thông minh”.

Duy Trinh

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang