Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về hấp thụ vi nhựa nhiều nhất qua đường thực phẩm

authorVân Thảo 06:23 14/06/2024

(VietQ.vn) - Các nhà khoa học từ Đại học Cornell (Mỹ) trong một nghiên cứu mới đây đã chỉ ra người dân Việt Nam nằm trong nhóm hấp thụ vi nhựa nhiều nhất thế giới.

Việt Nam là quốc gia điển hình ở Đông Nam Á hấp thụ vi nhựa nhiều nhất thế giới

Các nhà nghiên cứu của Đại học Cornell chỉ ra con người hấp thụ vi nhựa qua hai đường chính đó là thực phẩm và không khí. Các nước Đông Nam Á dẫn đầu bảng xếp hạng trong nghiên cứu tính theo bình quân đầu người, với các trường hợp điển hình là Việt Nam, Indonesia, Philippines và Malaysia.

Người dân Việt Nam xếp thứ 4 trong chỉ số tiêu thụ nhiều vi nhựa nhất qua đường thực phẩm. Nghiên cứu chỉ ra trung bình mỗi người Việt Nam "ăn" 363,6 mg vi nhựa mỗi ngày. Trong khi đó, người dân Trung Quốc và Mông Cổ đứng đầu về lượng hấp thụ vi nhựa trong không khí.

Nghiên cứu tiến hành khảo sát 109 quốc gia, lấy dữ liệu từ năm 1990 - 2018, được hoàn thiện và xuất bản vào tháng 4/2024. Các nhà khoa học cũng tính đến các yếu tố như thói quen ăn uống, công nghệ chế biến thực phẩm và nhân khẩu học.

Vi nhựa, theo định nghĩa của các nhà khoa học của Đại học Cornell, là những hạt nhựa có kích thước nhỏ hơn 5 mm. Chúng có thể là những sợi, mảnh, hạt vụn đến từ các sản phẩm nhựa bị vỡ, bong tróc, hư hỏng. Quá trình sản xuất, xử lý nhựa không đúng cách cũng khiến vi nhựa tràn ra ngoài môi trường.

Vi nhựa ẩn mình trong thực phẩm, không khí gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và sức khỏe con người. Ảnh minh họa

Bệnh viện Đại học Y Huế định nghĩa vi nhựa là "những mảnh nhỏ được hình thành từ quá trình phân hủy các sản phẩm nhựa như chai nhựa, túi nilon, đồ dùng bằng nhựa,… thải ra môi trường". Ngoài ra, chúng còn được tạo ra ở kích thước siêu nhỏ trong các sản phẩm kem đánh răng và chất tẩy tế bào chết.

Một số nghiên cứu đã chứng minh mối quan hệ giữa vi nhựa và các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng của con người. Chúng chứa những hóa chất độc hại có thể gây ung thư, bệnh tim hoặc khiến thai nhi kém phát triển.

Nghiên cứu chỉ ra quá trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển, đặc biệt là tại Đông Nam Á, là nguyên nhân chính dẫn đến việc tốc độ sử dụng nhựa tăng mạnh. Hoạt động xả thải nhựa ra môi trường tự nhiên từ đó cũng tăng theo.

Trong khi đó, các quốc gia phát triển lại chứng kiến chiều hướng ngược lại. Vi nhựa trong không khí ghi nhận tại Việt Nam cao gấp 8 lần so với tại Nhật Bản.

Việt Nam đứng thứ hai thế giới về nhập khẩu rác thải, phế liệu nhựa, chỉ sau Malaysia, với lượng rác thải nhựa nhập khẩu hơn 2 triệu tấn trong năm 2022, theo Liên minh Không rác Việt Nam (Vietnam Zero Waste Alliance - VZWA).

Đánh giá về thực trạng này, Liên minh không rác Việt Nam (VZWA) cho biết: “Chất thải nhựa nhập khẩu là hiện nay rất cần để bổ sung cho nguồn cung trong nước và đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho ngành sản xuất, tái chế nhựa của Việt Nam."

Việt Nam có những làng nghề chuyên thu gom, xử lý phế liệu, rác thải nhựa, đơn cử như làng Minh Khai tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên, việc xử lý rác thải nhựa ở các làng nghề như vậy có nhiều rủi ro do sử dụng máy móc lạc hậu, khiến cho phần nhựa không thể tái chế bị vứt bỏ bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường. Nước trong quá trình xử lý nhựa mang các vi nhựa theo dòng chảy đi ra sông, biển.

Các hạt vi nhựa khi đi ra môi trường nước sẽ bị các sinh vật phù du ăn phải. Sau đó, các loài cá, động vật thủy sinh ăn các sinh vật phù du, và con người khi tiêu thụ những thủy hải sản này sẽ vô tình hấp thụ luôn cả vi nhựa.

Một báo cáo được công bố vào tháng 4/2024 của Liên Hiệp Quốc chỉ ra rằng Việt Nam đứng thứ 4 trong các quốc gia xả phế liệu, rác thải nhựa ra biển nhiều nhất thế giới.

Nghiên cứu từ Đại học Cornell cho biết hơn 50% lượng vi nhựa người dân Việt Nam "ăn" phải đến từ môi trường nước, đặc biệt là hải sản. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia tiêu thụ hải sản cao nhất thế giới với 37 kg/người/năm. Ngoài ra, vi nhựa cũng xuất hiện trong trái cây, rau, ngũ cốc, đồ uống, đường, muối và các gia vị khác.

Cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn về nhựa và vi nhựa

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 22 triệu tấn chất thải rắn sinh hoạt. Trong đó, khoảng 10% là chất thải nhựa và số lượng này ngày càng gia tăng. Theo dự báo của các chuyên gia, thất thoát rác thải nhựa không chủ đích vào môi trường nước của Việt Nam dự kiến sẽ tăng 106% từ năm 2021 đến năm 2030. Còn số này chỉ giảm nếu có những hành động mang tính hệ thống và đột phá được thực hiện nhằm giải quyết triệt để vấn đề nhựa và chất thải nhựa, từ tái thiết kế vật liệu, sản xuất và tiêu thụ bền vững cho đến tăng cường năng lực quản lý chất thải.

Về các giải pháp, trước đó Chính phủ đã có Quyết định số 1746/QĐ-TTg đặt ra một loạt các mục tiêu với thời hạn cụ thể để giải quyết cuộc khủng hoảng ô nhiễm nhựa.

Trong đó, cắt giảm một nửa lượng chất thải nhựa trong môi trường biển vào năm 2025; giảm thiểu 75% lượng chất thải nhựa trên biển vào năm 2030; và loại bỏ hoàn toàn đồ nhựa sử dụng một lần và túi ni lông khó phân huỷ tại các điểm du lịch ven biển và các khu bảo tồn biển vào năm 2030.

Cần thiết lập khuôn khổ pháp lý và thể chế ở phạm vi quốc gia về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất các sản phẩm nhựa; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn về nhựa và vi nhựa.

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho rằng, để kiểm soát và giảm ô nhiễm vi nhựa trong không khí, cần ưu tiên thực hiện các nhóm giải pháp cụ thể như chính sách và quản lý, giải pháp kỹ thuật - tài chính, giáo dục và truyền thông nâng cao nhận thức.

Giải pháp chính sách và quản lý: Thúc đẩy chính sách tái chế và xử lý chất thải nhựa gia tăng hiệu quả để giảm ô nhiễm vi nhựa. Quản lý hữu hiệu quy trình tái chế có thể chuyển đổi các sản phẩm nhựa đã qua sử dụng thành nguyên liệu tái chế để sản xuất sản phẩm mới.

Giải pháp kỹ thuật - tài chính: Đầu tư nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên tiến để xử lý và loại bỏ ô nhiễm nhựa cũng là giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ môi trường không khí. Trong đó ưu tiên ứng dụng các công nghệ xanh, hiệu quả và tiết kiệm năng lượng. Đảm bảo việc thu gom, xử lý và tái chế chất thải nhựa thực hiện một cách hiệu quả và bền vững. Ưu tiên nguồn vốn thúc đẩy sản phẩm thân thiện môi trường bằng cách khuyến khích phát triển và sử dụng các sản phẩm nhựa thay thế theo hướng thân thiện sinh thái. Ví dụ, sử dụng các loại túi, bao bì, nhựa dễ phân hủy sinh học (bioplastics)... có nguồn gốc từ tự nhiên. Qua đó, giảm thiểu nguồn phát sinh, các tác động xấu đối với môi trường và hệ sinh thái.

Tăng cường giáo dục và nâng cao ý thức về tác động của ô nhiễm nhựa trong không khí là cần thiết. Công chúng cần được thông báo về tác động của vi nhựa đến sức khỏe con người và môi trường, cũng như khuyến khích thay đổi hành vi/nhận thức tiêu dùng và sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Như vậy, nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe con người, cần hợp tác và thực hiện biện pháp kiểm soát ô nhiễm vi nhựa ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu. Qua đó, tạo ra những thay đổi tích cực trong suy nghĩ và hành động thiết thực về việc hạn chế sử dụng, xử lý và tái chế nhựa, hướng đến một tương lai bền vững. Việc kiểm soát ô nhiễm vi nhựa đòi hỏi sự kết hợp của nhiều biện pháp, bao gồm chính sách - quản lý, giải pháp kỹ thuật - tài chính, giáo dục - truyền thông. Cụ thể như giảm sử dụng nhựa, tái chế và xử lý chất thải, nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, thúc đẩy sản phẩm thân thiện với môi trường, tăng cường giáo dục và nâng cao ý thức cộng đồng.

Vân Thảo (T/h)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang