Nhìn lại 5 năm triển khai Đề án 100 về truy xuất nguồn gốc
(VietQ.vn) - Qua 5 năm triển khai Đề án 100, hệ thống truy xuất nguồn gốc (TXNG) sản phẩm, hàng hóa tại Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, từng bước hình thành khung pháp lý, kỹ thuật và công nghệ, đồng thời mở rộng triển khai trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật vẫn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục để bảo đảm mục tiêu lâu dài.
Xây dựng tiêu chuẩn bảo mật blockchain hướng đến hệ sinh thái an toàn hơn
‘Trèo đèo lội suối’ cả vạn km với VinFast VF 5, chủ xe tiết lộ loạt ưu điểm của chiếc xe ‘chiến’ nhất phân khúc
TCVN 14260:2024 quy định việc phân loại và ghi nhãn gỗ biến tính
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, minh bạch thông tin sản phẩm và quản lý chất lượng hàng hóa đã trở thành yêu cầu tất yếu của thị trường. TXNG không chỉ là công cụ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm, mà còn là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam có thể tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đáp ứng các quy định khắt khe của đối tác quốc tế.
Qua 5 năm triển khai Đề án 100, hệ thống TXNG sản phẩm, hàng hóa tại Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, từng bước hình thành khung pháp lý, kỹ thuật và công nghệ, đồng thời mở rộng triển khai trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật vẫn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục để bảo đảm mục tiêu lâu dài.
Những bước tiến mới trong Đề án 100
Về ưu điểm, thứ nhất, với việc đã ban hành Thông tư 02/2024/TT-BKHCN và công bố 35 TCVN về TXNG, khung pháp lý và tiêu chuẩn đã được hoàn thiện ở mức độ cao. Đặc biệt, việc Quốc hội thông qua Luật số 78/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa) và Luật số 70/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật) đã nâng tầm TXNG từ mức quy định dưới luật lên thành cơ sở pháp lý có hiệu lực cao, tạo sự thống nhất và cam kết lâu dài.
Thứ hai, công tác chỉ đạo triển khai tại địa phương đạt phạm vi bao phủ toàn diện. Đến năm 2025, toàn bộ 34 tỉnh/thành phố mới sau sắp xếp đơn vị hành chính đều đã ban hành kế hoạch triển khai Đề án;
Thứ ba, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã đã có kết quả cụ thể. Các chính sách hỗ trợ trực tiếp như cấp tem, mã QR và hỗ trợ kinh phí đã tạo động lực lan tỏa;
Thứ tư, công tác tuyên truyền, đào tạo được triển khai rộng khắp, đa dạng hình thức với trên 10.000 khóa đào tạo tập huấn thu hút trên 1 triệu lượt tham dự;
Thứ năm, hệ thống quản lý TXNG cấp tỉnh từng bước hình thành và kết nối với Cổng quốc gia. Đến năm 2025, khoảng 35 địa phương cũ (24 tỉnh/thành mới) đã xây dựng hệ thống TXNG cấp tỉnh.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, quá trình triển khai Đề án 100 trong giai đoạn 2019–2025 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế cần được quan tâm, xem xét để nâng cao hiệu quả trong thời gian tới.
Thứ nhất, tiến độ và chất lượng triển khai không đồng đều giữa các vùng, miền. Một số địa phương triển khai sâu, bài bản và có hệ thống, trong khi nhiều địa phương khác mới chỉ dừng lại ở bước ban hành kế hoạch hoặc thực hiện ở quy mô hạn chế, đặc biệt tại các tỉnh miền núi, trung du và vùng sâu, vùng xa. Năng lực tổ chức, nguồn lực tài chính và hạ tầng công nghệ thông tin giữa các địa phương 13 còn chênh lệch đáng kể, dẫn đến mức độ áp dụng truy xuất nguồn gốc khác nhau, tạo sự phân tán trong tổng thể hệ thống.
Thứ hai, hạ tầng kỹ thuật và mức độ kết nối dữ liệu quốc gia chưa đạt sự đồng bộ cần thiết. Mặc dù nhiều địa phương đã xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc cấp tỉnh, nhưng số lượng hệ thống thực hiện kết nối kỹ thuật hoặc chia sẻ dữ liệu ổn định lên Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia còn chưa cao. Việc chuẩn hóa dữ liệu, tích hợp thông tin và vận hành theo tiêu chuẩn thống nhất vẫn gặp khó khăn do sự đa dạng về phần mềm, mô hình quản lý và tiêu chuẩn dữ liệu được sử dụng tại các địa phương.
Thứ ba, việc cập nhật và duy trì dữ liệu truy xuất của doanh nghiệp chưa thường xuyên, chủ yếu tập trung vào các địa phương có quy mô sản xuất lớn hoặc có chính sách hỗ trợ mạnh. Một bộ phận doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất chưa chú trọng duy trì nhật ký điện tử, chưa coi truy xuất nguồn gốc là một phần trong quản trị sản xuất – kinh doanh thường xuyên, dẫn đến dữ liệu thiếu ổn định và chưa phản ánh đầy đủ chuỗi giá trị.
Thứ tư, công tác đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật chưa đồng đều về chiều sâu, mặc dù được triển khai rộng. Việc đào tạo chủ yếu tập trung vào thời điểm ban đầu, chưa có nhiều chương trình đào tạo nâng cao hoặc đào tạo chuyên sâu theo hướng thực hành, khiến năng lực vận hành chưa bền vững. Nhiều địa phương thiếu nhân lực chuyên trách, hạ tầng CNTT chưa đồng bộ, dẫn đến dữ liệu không được cập nhật thường xuyên.
Thứ năm, cơ chế phối hợp liên ngành chưa thật sự chặt chẽ, đặc biệt trong chia sẻ thông tin, chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ và kết nối dữ liệu giữa các ngành hàng, lĩnh vực quản lý. Một số quy định hướng dẫn về tiêu chuẩn kỹ thuật, phân quyền quản trị dữ liệu và trách nhiệm trong vận hành hệ thống còn chưa thống nhất, chưa tạo điều kiện tối ưu để triển khai liên thông trên phạm vi toàn quốc.
Nhìn chung, các hạn chế trên cho thấy cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, tăng cường tiêu chuẩn hóa kỹ thuật, củng cố hạ tầng số, bảo đảm nguồn lực vận hành và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

Ảnh minh hoạ.
Phương hướng và giải pháp trong thời gian tới
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được trong hơn 5 năm qua, đồng thời xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển bền vững trong nước, hệ thống truy xuất nguồn gốc (TXNG) của Việt Nam trong giai đoạn tới cần được tiếp tục hoàn thiện và mở rộng. Định hướng trọng tâm là xây dựng và vận hành hệ thống TXNG thống nhất, minh bạch, hiệu quả, bảo đảm tính tương thích với chuẩn mực quốc tế, phục vụ đồng thời yêu cầu quản lý nhà nước, hoạt động sản xuất – kinh doanh và quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật
Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý được coi là nền tảng quan trọng. Quốc hội đã thông qua Luật số 78/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa) và Luật số 70/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật), trong đó bổ sung nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến quản lý và tổ chức thực hiện TXNG. Đây sẽ là hành lang pháp lý thống nhất, tạo cơ sở để áp dụng TXNG bắt buộc với nhóm sản phẩm có rủi ro cao.
Trong giai đoạn tới, các bộ, ngành cần tiếp tục rà soát, ban hành danh mục sản phẩm bắt buộc áp dụng TXNG theo mức độ rủi ro, tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia mới, đặc biệt là những tiêu chuẩn liên quan đến công nghệ số nhằm bảo đảm tính tương thích với hệ thống GS1 toàn cầu, cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ hai, đẩy mạnh triển khai tại địa phương
Toàn bộ 34 tỉnh/thành phố mới cần tiếp tục thực hiện kế hoạch triển khai Đề án 100 theo hướng gắn kết chặt chẽ với chương trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số tại địa phương. Các địa phương phải xác định rõ danh mục sản phẩm chủ lực, sản phẩm xuất khẩu làm trọng tâm triển khai áp dụng TXNG.
Trọng điểm trong giai đoạn tới là mở rộng phạm vi TXNG: từ nhóm sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm sang dược phẩm, thủy sản, hàng công nghiệp và dịch vụ có tiềm năng. Việc triển khai cần linh hoạt, phù hợp điều kiện từng địa phương, đồng thời bảo đảm sự đồng đều giữa các vùng, tránh tình trạng chênh lệch rõ rệt như hiện nay.
Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã và người sản xuất
Doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất là lực lượng trực tiếp vận hành hệ thống TXNG. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng cơ chế hỗ trợ bền vững: Hỗ trợ tài chính thông qua cấp tem, mã truy xuất, đặc biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã và khu vực miền núi, vùng khó khăn. Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo, bao gồm các gói tư vấn, chuyển giao công nghệ và giải pháp phần mềm. Khuyến khích áp dụng công nghệ mới trong quản lý chuỗi cung ứng như IoT, blockchain, dữ liệu lớn nhằm nâng cao tính minh bạch và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo và nâng cao nhận thức
Cần mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, đào tạo về TXNG. Ngoài các hình thức truyền thống (hội nghị, tập huấn), cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ truyền thông số, nền tảng mạng xã hội và giáo dục trực tuyến. Việc lồng ghép TXNG vào các chương trình giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, chương trình OCOP cần được triển khai bài bản, qua đó nâng cao nhận thức cộng đồng, hình thành thói quen sản xuất – kinh doanh minh bạch, hướng tới tiêu chuẩn quốc tế.
Phối hợp với các hiệp hội, ngành hàng, hệ thống siêu thị lớn tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng về lợi ích của việc áp dụng TXNG trong việc nâng cao giá trị của sản phẩm và minh bạch thông tin sản phẩm.
Thứ năm, xây dựng và vận hành hệ thống quản lý thông tin TXNG thống nhất toàn quốc
Nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn tới là đẩy nhanh tiến độ kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống TXNG cấp tỉnh với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa TXNG quốc gia. Bộ KH&CN cần chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và địa phương để: Hoàn thiện hạ tầng công nghệ, bảo đảm khả năng liên thông, tích hợp và khai thác dữ liệu với mục tiêu: Ít nhất 80% dữ liệu TXNG của các ngành hàng trọng điểm được chia sẻ lên Cổng thông tin TXNG sản phẩm, hàng hoá Quốc gia.
Với 150.000 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tham gia; 4 triệu sản phẩm được định danh trên Cổng với 100% sản phẩm rủi ro cao áp dụng TXNG bắt buộc được chia sẻ dữ liệu lên Cổng; kết nối 2-3 hệ thống TXNG quốc tế để hỗ trợ xuất khẩu. Xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá, xử lý vi phạm minh bạch, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý. Ứng dụng tối thiểu 2 công nghệ tiên tiến cho hệ thống truy xuất nguồn gốc, thí điểm các mô hình áp dụng công nghệ blockchain và trí tuệ nhân tạo (AI) trong hệ thống TXNG, tạo cơ sở cho hoạch định chính sách và cảnh báo rủi ro.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế
Tiếp tục mở rộng hợp tác với GS1 toàn cầu, FAO, WHO, ADB, UNIDO, USAID và các tổ chức quốc tế khác nhằm cập nhật xu hướng, chuẩn mực mới về TXNG, đồng thời thúc đẩy cơ chế liên thông về thông tin TXNG trong thương mại quốc tế. Việt Nam cần chủ động tham gia nhóm xây dựng tiêu chuẩn quốc tế của GS1, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại điện tử, logistics chuỗi lạnh, y tế và mã định danh sản phẩm.
Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia đối tác thương mại lớn, tạo thuận lợi để nông sản, thủy sản và hàng hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhập khẩu khắt khe, thâm nhập bền vững vào thị trường quốc tế.
Hà My









