Quản lý nhà nước về viễn thông và tần số vô tuyến điện: Một số đề xuất, kiến nghị của tỉnh Lạng Sơn
(VietQ.vn) - Sở Khoa học và Công nghệ Lạng Sơn đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện công tác quản lý nhà nước về viễn thông và tần số vô tuyến điện, góp phần bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là phục vụ nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh biên giới.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho địa phương
Doanh nghiệp viễn thông tăng tốc chuyển đổi nhờ AI và công nghệ mới
Lạng Sơn là tỉnh miền núi, biên giới, có đường biên dài hơn 231 km tiếp giáp với Trung Quốc, có nhiều cửa khẩu quốc tế, quốc gia và lối mở, là địa bàn trọng điểm về giao lưu kinh tế, văn hóa, đối ngoại và cũng là khu vực trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Trong những năm qua, cùng với tiến trình chuyển đổi số, công tác quản lý nhà nước về viễn thông và tần số vô tuyến điện đã được ưu tiên quan tâm chỉ đạo, Sở Khoa học và Công nghệ Lạng Sơn đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện công tác quản lý nhà nước về viễn thông và tần số vô tuyến điện, góp phần bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là phục vụ nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh biên giới.
1. Lĩnh vực viễn thông
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về viễn thông địa phương, Sở Khoa học và Công nghệ đã tham mưu UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tham mưu các kế hoạch về phát triển hạ tầng số trên địa bàn tỉnh, tham mưu lồng ghép nội dung về quy hoạch hạ tầng viễn thông thụ động vào quy hoạch tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050… đáp ứng yêu cầu phát triển về viễn thông hiện nay.
Ngoài hệ thống mạng Internet công cộng hiện đang cung cấp dịch vụ, Sở đã chỉ đạo các doanh nghiệp triển khai mạng truyền số liệu chuyên dùng, phục vụ riêng cho các cơ quan Đảng, Nhà nước - sẵn sàng cung cấp các dịch vụ truyền số liệu và ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo an toàn, an ninh khi sử dụng hạ tầng dùng riêng đến 100% cơ quan cấp tỉnh và 100% xã. Toàn tỉnh có 920.000 thuê bao điện thoại, gần 1.000.000 thuê bao truy nhập Internet băng rộng, tỷ lệ có cáp quang đến gia đình đạt 82%.
Tổng số trạm BTS (trạm thu phát song) toàn tỉnh là 3.500 trạm, trong đó có 40 trạm 5G, tỷ lệ dân số được phủ sóng di động đạt 99.95% (theo dữ liệu của Cục Viễn thông), trong đó 13% dân số được phủ sóng 5G. Được sự quan tâm của Bộ Khoa học và Công nghệ, sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, tỉnh Lạng Sơn đã xóa được 244 điểm trắng sóng, lõm sóng so với năm 2021.
Tuy nhiên, do đặc thù địa hình, điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm vùng biên giới, công tác quản lý lĩnh vực viễn thông vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Ảnh minh họa.
1.1 Khó khăn, vướng mắc
- Yếu tố địa hình, dân cư và đặc thù địa phương
Địa bàn tỉnh Lạng Sơn chủ yếu là đồi núi, địa hình chia cắt, dân cư sống rải rác, không tập trung tại nhiều khu vực sâu, xa, biên giới. Việc đầu tư hạ tầng viễn thông tại các khu vực này đòi hỏi chi phí lớn nhưng hiệu quả kinh tế thấp, dẫn đến tình trạng còn nhiều thôn, bản vùng sâu xa, dân cư thưa thớt lõm sóng di động, gây khó khăn trong cung cấp dịch vụ thông tin cơ bản cho người dân. Qua rà soát thời điểm tháng 8/2025, tỉnh Lạng Sơn còn có 121 thôn bản chưa có sóng di động và khoảng 300 điểm dân cư lõm sóng.
Lạng Sơn là tỉnh biên giới, là khu vực đặc thù, nhạy cảm và yêu cầu xử lý tình huống phải nhanh, cần có sự quan tâm đặc biệt và dành nguồn lực ưu tiên đầu tư về hạ tầng, trong đó hạ tầng về viễn thông là đặc biệt quan trọng. Với hiện trạng không có sóng viễn thông sẽ gây khó khăn cho lực lượng biên phòng và các lực lượng liên quan khác khi cần liên lạc, phối hợp tuần tra, truy bắt tội phạm, xử lý tình huống khẩn cấp; khó truyền tải thông tin kịp thời giữa các chốt, đồn biên phòng và cấp trên; Tác động xấu đến quốc phòng - an ninh và chủ quyền khi thông tin liên lạc không thông suốt, bị động trong xử lý các tình huống phức tạp, nhất là khi có yếu tố ngoại giao; Ngoài ra còn tiềm ẩn nguy cơ gây ra khoảng trống thông tin, bị các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc.
Ngoài ra, do địa bàn có đến 231,74km đường biên giới với Trung Quốc nên việc kinh doanh và sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông (trong đó có các thiết bị thu phát sóng tần số vô tuyến điện) chưa được chứng nhận hợp quy, chưa công bố hợp quy vẫn còn tương đối phổ biến, đặc biệt là tại các hộ kinh doanh đơn lẻ tại các khu chợ, khu trung tâm thương mại giáp khu vực biên giới. Điều này gây khó khăn rất lớn cho công tác quản lý nhà nước về viễn thông tại địa phương.
- Khó khăn khi xây dựng trạm BTS
Thủ tục xin cấp phép xây dựng trạm BTS ở một số nơi còn phức tạp, kéo dài, gây chậm tiến độ phát triển hạ tầng viễn thông. Một số chính quyền cơ sở và người dân chưa đồng thuận khi lắp đặt trạm phát sóng do lo ngại ảnh hưởng đến sức khỏe. Đến thời điểm hiện tại, không có văn bản nào khẳng định việc trạm BTS không ảnh hưởng đến sức khỏe.
Sở Khoa học và Công nghệ nhận được đơn tập thể của hơn 30 hộ dân khu vực đô thị kiến nghị không cho xây trạm BTS, đề nghị di chuyển trạm sang vị trí khác không có dân sinh sống do lo ngại vấn đề sức khỏe. Các hộ dân gây cản trở, khó khăn khi doanh nghiệp xây dựng trạm.
- Khó áp dụng văn bản quy định vào thực tiễn
Một số nội dung quản lý chuyên ngành viễn thông (như chia sẻ hạ tầng, dùng chung hạ tầng kỹ thuật) mặc dù đã có một số văn bản hướng dẫn của Bộ, tuy nhiên để thực thi còn nhiều vướng mắc. Ví dụ như việc xác định đơn giá dùng chung hạ tầng ngầm, các doanh nghiệp nếu không thật sự bắt tay với nhau hoặc không có chỉ đạo từ Tập đoàn thì rất khó để thực hiện, doanh nghiệp có hạ tầng sẽ đưa ra đơn giá cao – địa phương khó xác định được tính sát thực đơn giá, như vậy là làm khó khăn cho doanh nghiệp muốn thuê hạ tầng.
- Việc thực hiện công tác chỉnh trang, hạ ngầm mạng cáp
Tỉnh Lạng Sơn mặc dù đã ban hành Kế hoạch thực hiện chỉnh trang, tuy nhiên không có ngân sách nhà nước để thực hiện. Do đó, để cho các DN tự phối hợp làm theo kế hoạch chung do tỉnh ban hành. Tuy nhiên, quá trình làm không triệt để, còn nhiều sợi cáp thừa, đã tồn tại từ lâu mà không cắt bỏ.
Đặc biệt đối với việc ngầm hóa, nếu không có nguồn lực để đầu tư cống, bể cáp thì rất khó để yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện ngầm hóa mạng cáp tại khu vực đô thị, khu vực yêu cầu cao về cảnh quan. Bên cạnh đó cũng không có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của các ngành điện lực, giao thông…
- Không có công cụ để thực hiện kiểm tra, giám sát
Hiện nay, đối với thông tin thuê bao, Sở Khoa học và Công nghệ không có dữ liệu để quản lý, không được chia sẻ dữ liệu. Việc yêu cầu doanh nghiệp cung cấp, báo cáo để phục vụ kiểm tra, giám sát thì phải chờ đợi lâu, mỗi lần cung cấp phải chờ doanh nghiệp tại địa phương báo cáo, xin dữ liệu từ tập đoàn. Do đó, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về thông tin thuê bao tại địa phương.
Tình trạng nhắn tin, gọi điện lừa đảo vẫn còn diễn ra phổ biến không chỉ riêng ở Lạng Sơn mà trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý nhà nước tại địa phương không có biện pháp để xử lý triệt để, dữ liệu không có, thuê bao không xác định được đã kích hoạt tại địa phương nào, nếu xác định được nhưng ngoài địa bàn quản lý cũng không xử lý được.
1.2 Đề xuất, kiến nghị
- Để chủ động và đẩy nhanh việc phát triển hạ tầng tại khu vực vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới... đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét phân quyền cho các địa phương chủ động triển khai xây dựng hạ tầng viễn thông tại địa bàn và hỗ trợ cho đối tượng được thụ hưởng chính sách viễn thông công ích. Các địa phương chịu trách nhiệm về quá trình triển khai trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của TW, vừa đẩy nhanh tiến độ, vừa phát huy vai trò QLNN của Sở.
- Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu xây dựng nên tảng quản lý đối tượng được thụ hưởng chương trình viễn thông công ích, kết nối với nền tảng quản lý dữ liệu về hộ nghèo/hộ cận nghèo (nếu chưa có, đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng)... phân quyền cho các Sở để cập nhật đối tượng được thụ hưởng, trích xuất được dữ liệu hộ nghèo/hộ cận nghèo nào đã được thụ hưởng chương trình; phân quyền cho các doanh nghiệp để cập nhật đối tượng đã cung cấp dịch vụ để tránh sự chồng chéo... thuận tiện trong việc theo dõi, cũng như kiểm tra việc cung cấp sử dụng dịch vụ viễn thông công ích đối với hộ gia đình, tổ chức, đơn vị... Phổ cập chương trình đến với đối tượng thụ hưởng dựa trên dữ liệu quản lý.
- Đề nghị Bộ đẩy nhanh việc phát triển hạ tầng theo chương trình viễn thông công ích, đề xuất có chương trình, đề án để phủ sóng khu vực biên giới bị lõm sóng, phục vụ nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc phòng (UBND tỉnh Lạng Sơn đã có Công văn số 1102/UBND-KGVX ngày 05/6/2025 gửi Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị phủ sóng viễn thông tại khu vực biên giới).
- Tăng cường việc phối hợp, chia sẻ dữ liệu giữa Bộ và các Sở về dữ liệu thông tin thuê bao, chuyển mạng giữ số... để phục vụ công tác kiểm tra, giám sát tại địa phương.
- Việc khiếu kiện, phản đối xây dựng trạm BTS do lo ngại về sức khỏe hàng năm ở tỉnh Lạng Sơn vẫn xảy ra, chính quyền địa phương ngại va chạm với người dân dẫn đến một số trạm vẫn không xây dựng được. Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ biên soạn bộ tài liệu tuyên truyền (bằng công văn, bằng video...) để hướng dẫn và khẳng định việc có/không ảnh hưởng của trạm BTS tới sức khỏe và xử lý như thế nào, gửi đến UBND các tỉnh để chỉ đạo các địa phương cấp cơ sở áp dụng, thực hiện.
2. Lĩnh vực tần số vô tuyến điện
Để thực hiện công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực tần số vô tuyến điện, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn đã phối hợp rất chặt chẽ với Trung tâm Tần số vô tuyến điện thuộc khu vực I (Cục Tần số vô tuyến điện) để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, xác định can nhiễu, đo kiểm, hướng dẫn các thủ tục cấp phép sử dụng tần số và thiết bị vô tuyến điện. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý nhà nước, Sở cũng gặp phải một số khó khăn như sau:
2.1 Khó khăn vướng mắc
- Nghị định 133/2025/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 12/6/2025 về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ và có hiệu lực từ 01/7/2025. UBND cấp tỉnh sẽ thực hiện cấp phép một số TTHC thuộc lĩnh vực tần số vô tuyến điện. Tuy nhiên, tần số là lĩnh vực cần có chuyên môn kỹ thuật sâu. Việc cấp phép tần số phải sử dụng đến phần mềm đặc thù về cấp phép tần số. Do đó cũng gây khó khăn có quá trình cấp phép, phải phối hợp rất chặt chẽ với Trung tâm Tần số vô tuyến điện khu vực I, Sở cũng chưa chủ động để thực hiện được công tác cấp phép.
- Do là địa bàn biên giới đặc thù nên sản phẩm thiết bị sử dụng tần số, đặc biệt là bộ đàm và micro không dây... không rõ nguồn gốc xuất xứ, không được chứng nhận hợp quy được kinh doanh và sử dụng vẫn còn tương đối phổ biến trên địa bàn tỉnh. Sở cũng đã phối hợp với Trung tâm I để thực hiện tuyên truyền bằng nhiều hình thức như công văn tuyên truyền, tờ rơi tuyên truyền... để kinh doanh và sử dụng các thiết bị đảm bảo các quy chuẩn, được chứng nhận và công bố hợp quy. Tuy nhiên tình trạng vẫn chưa được xử lý triệt để.
- Không có công cụ, trang thiết bị để phục vụ công tác quản lý nhà nước về tần số tại địa phương. Mặc dù đã cấp phép cho các tổ chức, đơn vị để sử dụng tần số, tuy nhiên các đơn vị đó có sử dụng đúng tần số Sở đã cấp phép hay không thì không có công cụ để đo kiểm và xác định. Trang thiết bị kiểm soát tần số, đo kiểm sóng chưa được trang bị, không có chuyên môn kỹ thuật chuyên sâu do đó khó phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm như thiết bị gây nhiễu tần số, trạm BTS giả.
- Tình trạng can nhiễu tần số tại khu vực biên giới do hoạt động của bộ đàm du lịch, chồng lấn sóng phát thanh… diễn ra tại một số khu vực giáp biên. Tuy nhiên, cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương không có biện pháp để xử lý.
Có thể khẳng định, riêng về lĩnh vực tần số, công tác quản lý nhà nước tại địa phương còn thiếu cả về nhân sự chuyên sâu và trang thiết bị, phải phối hợp rất chặt chẽ với Cục Tần số vô tuyến điện, cụ thể là Trung tâm quản lý phụ trách địa bàn.
2.2 Đề xuất, kiến nghị
- Mô hình chính quyền địa phương hai cấp hoạt động từ ngày 01/7/2025, nhiều cán bộ công chức cấp xã mới, chưa được tiếp cận các nội dung về lĩnh vực tần số vô tuyến điện trước đó. Đề nghị Bộ xem xét, mở lớp hướng dẫn, đào tạo cho cả cán bộ phụ trách tần số của Sở Khoa học và Công nghệ, cũng như công chức phụ trách ở các xã, phường.
- Đề nghị Bộ xem xét hỗ trợ trang thiết bị cho các địa phương để đo kiểm, xác định tần số, xác định can nhiễu… để các tỉnh chủ động hơn trong việc phát hiện, kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan QLNN về viễn thông với cơ quan QLNN về tần số, hỗ trợ các tỉnh biên giới nói riêng trong việc ngăn chặn việc kinh doanh và sử dụng các thiết bị vô tuyến điện không có hợp quy, có nguy cơ gây can nhiễu đối với các mạng khác.
Nguyễn Quang Huy, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Lạng Sơn









