Áp dụng “hộ chiếu số sản phẩm”: Bước ngoặt minh bạch, tăng uy tín hàng Việt
(VietQ.vn) - Việt Nam đang thiết lập lộ trình áp dụng “hộ chiếu số sản phẩm” từ năm 2026, với truy xuất nguồn gốc mạnh mẽ để minh bạch chuỗi cung ứng, bảo vệ người tiêu dùng và nâng tầm thương hiệu.
ISO/IEC 39794-5 - Tiêu chuẩn mới cho hộ chiếu sinh trắc học
Chứng nhận số thông minh – 'Hộ chiếu xanh' cho nông sản Việt vươn xa
FSSC 22000 – 'Hộ chiếu vàng' đưa thực phẩm Việt vươn ra thế giới
Hiện nay trên cả nước có khoảng 8.274 chợ, gần 300 trung tâm thương mại và 1.293 siêu thị. Đây là mạng lưới phân phối khổng lồ, phản ánh tốc độ phát triển mạnh của hệ thống bán lẻ hiện đại nhưng đồng thời cũng cho thấy sự song hành giữa kênh truyền thống và kênh hiện đại.
Ở các trung tâm thương mại và siêu thị, phần lớn cơ sở kinh doanh thực phẩm là doanh nghiệp, tập đoàn lớn nên thuộc diện bắt buộc có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Quy trình kiểm tra, giám sát định kỳ, bảo quản và nhãn mác sản phẩm được thực hiện tương đối đầy đủ, đảm bảo truy xuất nguồn gốc. Hệ thống kho lạnh, vận chuyển, xử lý rác thải cũng bài bản hơn, giúp kiểm soát chất lượng từ khâu nhập hàng đến bày bán.
Ngược lại, tại các chợ truyền thống, phần lớn cơ sở kinh doanh thực phẩm là hộ kinh doanh nhỏ lẻ. Theo quy định hiện hành, các hộ này chỉ cần thực hiện cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm với cơ quan có thẩm quyền do UBND cấp tỉnh phân công, không phải xin giấy chứng nhận. Thực phẩm bày bán thường là thực phẩm tươi sống, khối lượng nhỏ, luân chuyển nhanh, nên việc kiểm tra hồ sơ truy xuất nguồn gốc còn hạn chế. Nhiều tiểu thương chưa được đào tạo đầy đủ kiến thức về vệ sinh, bảo quản hay pháp luật liên quan đến an toàn thực phẩm. Chênh lệch này dẫn tới thực trạng hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại đang tiến gần chuẩn mực quản lý hiện đại, còn chợ truyền thống vẫn ở mức tự phát, khó kiểm soát.
Để khắc phục hạn chế trong quản lý an toàn thực phẩm tại chợ truyền thống, Bộ Công Thương đã ban hành Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 11856:2017 về chợ kinh doanh thực phẩm, khuyến khích các địa phương áp dụng nhằm nâng cao hạ tầng và điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm. Đây là tiêu chuẩn quốc gia mang tính hướng dẫn, chưa bắt buộc áp dụng đồng loạt, nên hiệu quả thực thi vẫn phụ thuộc nhiều vào quyết tâm của từng địa phương.
Trong lĩnh vực truy xuất nguồn gốc, theo ông Bùi Bá Chính - Quyền Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia - thuộc Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, Việt Nam hiện có nhiều nền tảng hỗ trợ, trong đó Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia đã chính thức vận hành từ tháng 10/2024.
Ngoài ra, Việt Nam tham gia Hệ thống định danh toàn cầu GS1 từ năm 1995 và công bố 35 TCVN về truy xuất nguồn gốc, trong đó có TCVN 13274:2020 quy định định dạng mã dùng cho truy vết. Khác với TCVN 11856:2017, tiêu chuẩn TCVN 13274:2020 đã được đưa vào Thông tư 02/2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ, yêu cầu mã truy vết phải phù hợp với tiêu chuẩn này khi áp dụng, góp phần chuẩn hóa dữ liệu và nâng cao hiệu quả quản lý.

Hộ chiếu số sẽ trở thành công cụ quản lý – thương hiệu – bảo vệ người tiêu dùng. Ảnh minh họa
Trên cơ sở đó, trước yêu cầu hội nhập sâu rộng và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe Việt Nam đang thiết lập lộ trình áp dụng “hộ chiếu số sản phẩm” – bước đột phá trong minh bạch nguồn gốc. Theo Tạp chí điện tử Thương Trường, Bộ Công Thương dự kiến ban hành thông tư vào tháng 5/2026, yêu cầu sản phẩm phải kèm mã QR hoặc nhãn điện tử cho phép truy xuất toàn bộ quá trình từ sản xuất đến tay người tiêu dùng.
Tại Tọa đàm “Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản trong nước, chinh phục người tiêu dùng” do báo Tiền Phong tổ chức, ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn – Phó Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho biết đây là một trong những giải pháp trọng tâm Bộ đang triển khai. Thông tư mới sẽ quy định bắt buộc mã QR/định danh sản phẩm hiển thị tại siêu thị và sàn thương mại điện tử từ năm 2026. Hàng tiêu thụ trong nước cũng phải đáp ứng tiêu chuẩn tương đương hàng xuất khẩu – không còn “hàng nội mặc sức” như trước.
Trong khi đó, các chuyên gia công nghệ cảnh báo, hệ thống TXNG không đơn giản là dán chip hay mã vạch, mà cần một hệ thống lưu vết xuyên chuỗi. Thông tin trên Vnexpress, ông Phạm Văn Quân – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Checkee – cho rằng nhiều sản phẩm hiện tại khi quét QR chỉ dẫn đến trang web quảng cáo, không chứa dữ liệu quá trình sản xuất. “Hộ chiếu số” phải chứa dữ liệu từng mắt xích mới có giá trị thực sự.
Theo lộ trình 2026–2028 sẽ yêu cầu 100% siêu thị và sàn thương mại điện tử hiển thị “hộ chiếu số sản phẩm” hoặc mã QR, và lực lượng quản lý thị trường dùng ứng dụng truy xuất dữ liệu thời gian thực để kiểm tra. Khi hệ thống truy xuất được phổ biến rộng, người tiêu dùng có thể quét mã để kiểm tra nguồn gốc, phát giác hàng giả, hàng nhái ngay tại điểm bán. Hiệu quả của TXNG phụ thuộc mạnh vào việc chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành và địa phương. Nền tảng quốc gia truy xuất cần liên thông với hệ thống định danh sản phẩm, tổ chức, cá nhân.
Ngoài ra, công nghệ truy xuất phải đáp ứng yêu cầu 3 chức năng chính: nhận dạng đơn vị sản phẩm, thu thập tự động dữ liệu và chia sẻ dữ liệu. Nếu không đạt được ba yếu tố này, hệ thống dễ bị phá vỡ hoặc thiếu hiệu lực. Bản thân các doanh nghiệp nhỏ và hợp tác xã thường gặp khó khăn về ngân sách, năng lực kỹ thuật và hạ tầng dữ liệu khi triển khai hệ thống TXNG.
Ông Trần Bá Dương – chuyên gia Đổi mới sáng tạo quốc gia, cố vấn cấp cao Tech Fesst cho rằng, các phương pháp truyền thống (tem chống giả, mã vạch đơn thuần) đang dần trở nên lỗi thời, dễ bị làm giả khi công nghệ phát triển. Khoảng 70% các vụ vi phạm hàng giả, hàng nhái xảy ra tại chợ truyền thống và cửa hàng nhỏ lẻ, nơi kiểm soát nguồn gốc khó khăn nhất. “Hộ chiếu số” được kỳ vọng là bước ngoặt quản lý thị trường nội địa, khi mọi hàng hóa tiêu thụ phải đáp ứng tiêu chuẩn như hàng xuất khẩu.
Khi “hộ chiếu số sản phẩm” được triển khai trên diện rộng và luật hóa, nó sẽ trở thành công cụ quản lý – thương hiệu – bảo vệ người tiêu dùng. Sản phẩm có truy xuất minh bạch sẽ dễ chinh phục thị trường quốc tế, giảm rủi ro bị từ chối theo tiêu chuẩn kỹ thuật.
Việc xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc số, kết hợp công nghệ – chính sách – quản lý liên ngành đang là nhiệm vụ cấp bách. Nếu thực hiện đồng bộ, “hộ chiếu số sản phẩm” có thể trở thành xương sống cho chuỗi cung ứng minh bạch, nơi người tiêu dùng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng tham gia bảo vệ thương hiệu Việt trên bản đồ thương mại toàn cầu.
An Dương (T/h)









