Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn SA 8000 tại Việt Nam
(VietQ.vn) - Việc áp dụng SA 8000 mang đến nhiều lợi ích cho người lao động, nâng cao hình ảnh và uy tín, giúp doanh nghiệp có vị thế tốt hơn trong thị trường lao động, thu hút được nhiều nhân viên giỏi.
Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 được áp dụng trên phạm vi toàn cầu cho mọi tổ chức, bất kể quy mô và lĩnh vực. Mục đích của SA 8000 là thiết lập cơ chế bảo vệ những người lao động tạo ra sản phẩm cho một tổ chức và nằm trong sự kiểm soát và ảnh hưởng của tổ chức đó. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000:2014 là phiên bản mới nhất hiện nay sau các phiên bản 2001, 2004 và 2008.

Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn SA 8000 Việt Nam.
Tại Việt Nam, các văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến vấn đề lao động có nhiều điểm tương đồng với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000:2014. Bởi vậy mà nhiều chuyên gia cho rằng chỉ cần doanh nghiệp thực hiện tốt Luật Lao động 2019 cũng như các quy định của Nhà nước về lao động thì đồng nghĩa với việc họ đang từng bước vận dụng tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Đây được xem là điều kiện vô cùng thuận lợi để áp dụng SA 8000 cho các doanh nghiệp tại Việt Nam. Cụ thể, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000:2014 và Luật Lao động 2019 giống nhau ở một số điểm chính sau:
Về lao động trẻ em: Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi.
Về lao động bắt buộc: Ngược đãi người lao động, cưỡng bức lao động là hành vi bị nghiêm cấm.
Về sức khỏe và an toàn: Người sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh lao động tại nơi làm việc.
Về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể: Người lao động có quyền gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật, nhu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động.
Về phân biệt đối xử: Phân biệt đối xử trong lao động là hành vi bị nghiêm cấm.
Về kỷ luật lao động: Không được xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín, nhân phẩm của người lao động; không phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.
Về giờ làm việc: Thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần; Người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần nhưng phải thông báo cho người lao động biết; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần.
Lương và phúc lợi: Mức lương theo công việc hoặc chức danh không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
Về hệ thống quản lý: Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nhằm duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho người lao động; có cơ chế điều hành, quản lý, giám sát lao động.
Mặc dù áp dụng tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 không khó nhưng thực tế SA 8000 vẫn được triển khai phổ biến hơn ở các doanh nghiệp nhà nước. Việc đưa SA 8000 vào doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn khá hạn chế, đòi hỏi nỗ lực và cam kết từ phía lãnh đạo doanh nghiệp, tức là cấp quản lý doanh nghiệp mà không ủng hộ thì SA 8000 rất khó triển khai.
Trong khi cơ sở để doanh nghiệp nhà nước áp dụng SA 8000 là cơ chế chặt chẽ bắt buộc tuân thủ pháp luật hiện hành liên quan thì động lực ứng dụng SA 8000 của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu tới từ yêu cầu của khách hàng và các công ty mẹ. Nguyên nhân là bởi tại một số thị trường như Mỹ và châu Âu, người tiêu dùng không chỉ yêu cầu các tiêu chuẩn thông thường về giá cả, chất lượng, mẫu mã, bao bì mà còn đòi hỏi giá trị đạo đức của sản phẩm. Cụ thể, các sản phẩm được lưu thông tự do trên những thị trường này phải là sản phẩm được sản xuất ra từ lao động hợp pháp, không có sự cưỡng ép hay bất công trong quá trình sản xuất.
Mặc dù mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và là 1 trong 3 tiêu chuẩn bắt buộc (bên cạnh ISO 9000 và 14000) nếu doanh nghiệp Việt muốn xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ và châu Âu (đặc biệt là hàng dệt may) nhưng có một thực trạng đáng buồn là không nhiều doanh nghiệp Việt Nam mặn mà với SA 8000. Nguyên do xuất phát từ những trở ngại về tài chính, nhận thức và vấn đề bảo mật thông tin.
Một số doanh nghiệp nhìn nhận SA 8000 như vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu kinh doanh là cắt giảm chi phí đề gia tăng lợi nhuận. Cho dù SA 8000 hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn về lâu dài thì nhiều công ty vẫn không muốn bỏ ra chi phí trước mắt để thực hiện. Các doanh nghiệp cũng chưa nhận thức được hết sự cần thiết của SA 8000 cho quá trình hội nhập quốc tế. Một số khác không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA 8000 (bao gồm: chi phí đào tạo, chi phí đánh giá, chi phí chứng nhận, chi phí thực hiện cải tiến). Mặt khác, nhiều doanh nghiệp tư nhân không muốn tiết lộ các ghi chép tài chính SA 8000.
Nếu so với số lượng doanh nghiệp đạt chứng nhận ISO 9000 và ISO 14000 thì doanh nghiệp áp dụng SA 8000 khiêm tốn hơn nhưng không thể vì thế mà phủ nhận kết quả tích cực mà SA 8000 đem lại cho doanh nghiệp. Hy vọng trong thời gian tới, khi mà nhận thức của doanh nghiệp được nâng cao, xu thế hội nhập ngày càng phát triển thì tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 cũng sẽ trở nên phổ biến rộng rãi hơn tại Việt Nam.
An Nguyên









