Truy xuất nguồn gốc – động lực kỹ thuật cho phát triển bền vững

author 09:12 12/12/2025

(VietQ.vn) - Truy xuất nguồn gốc đang trở thành công cụ quan trọng giúp minh bạch thông tin, nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Việc hoàn thiện tiêu chuẩn, dữ liệu và công nghệ tạo nền tảng kỹ thuật thúc đẩy quản lý hiện đại và phát triển bền vững.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, minh bạch thông tin sản phẩm và quản lý chất lượng hàng hóa đã trở thành yêu cầu tất yếu của thị trường. Truy xuất nguồn gốc không chỉ là công cụ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm, mà còn là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam có thể tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đáp ứng quy định khắt khe của đối tác quốc tế.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 19/01/2019 phê duyệt “Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa”. Bộ Khoa học và Công nghệ được giao là cơ quan thường trực, phối hợp các bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện. Sau hơn 5 năm triển khai, Đề án đã tạo dựng được khung pháp lý, hệ thống tiêu chuẩn, nền tảng công nghệ và bước đầu lan tỏa vào thực tiễn quản lý, sản xuất, kinh doanh ở 34 tỉnh/thành phố trên phạm vi cả nước.

Cụ thể, hệ thống pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật về truy xuất nguồn gốc (TXNG) từng bước được hoàn thiện, tạo nền tảng quan trọng cho việc áp dụng thống nhất trên phạm vi quốc gia. Về tiêu chuẩn quốc gia, cho đến nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố 35 tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về TXNG và mã truy vết, định danh sử dụng trong truy xuất nguồn gốc. Bao gồm các nhóm tiêu chuẩn về: mã truy vết; định danh; tiêu chuẩn quy định chung cho hệ thống TXNG; tiêu chuẩn TXNG cho sản phẩm thịt gia súc, gia cầm, sữa và các sản phẩm từ sữa, thủy sản…

Các tiêu chuẩn này đã bao phủ hầu hết nhóm sản phẩm chủ lực cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền tảng kỹ thuật, giúp các địa phương triển khai thống nhất, đồng bộ.

TXNG không phải là một thủ tục hành chính mới, mà là giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị.

Về pháp luật, Bộ Khoa học và Công nghệ được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, trong đó lần đầu tiên bổ sung các quy định về quản lý và tổ chức thực hiện truy xuất nguồn gốc. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (Luật số 78/2025/QH15) đã được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2025; hiện nay, Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đang được trình Chính phủ ban hành, tạo cơ sở pháp lý để từng bước áp dụng TXNG như một yêu cầu bắt buộc đối với nhóm hàng hóa rủi ro.

Trong giai đoạn 2019–2025, công tác triển khai Đề án 100 tại địa phương đã đạt nhiều kết quả tích cực. Cụ thể, 100% trong số 34 tỉnh, thành phố (mới) đã sắp xếp ổn định bộ máy; xây dựng và ban hành Kế hoạch triển khai Đề án phù hợp điều kiện của địa phương; triển khai thí điểm TXNG cho các nhóm sản phẩm chủ lực, trong đó có nông sản, sản phẩm OCOP nhằm hỗ trợ TXNG; góp phần phục vụ công tác quản lý; phát triển kinh tế nông thôn; xây dựng thương hiệu và chuyển đổi số ngành nông nghiệp.

Công tác tuyên truyền, phổ biến và đào tạo được triển khai đều đặn từ trung ương đến địa phương. Trong giai đoạn 2019–2025, cả nước đã tổ chức trên 10.000 khóa đào tạo về TXNG, thu hút trên 1 triệu lượt doanh nghiệp, hợp tác xã trực tiếp và trực tuyến, góp phần nâng cao nhận thức và năng lực triển khai hệ thống một cách bền vững.

Song song đó, nhiều địa phương đã đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống TXNG cấp tỉnh, từng bước kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia. Công thông tin chính thức vận hành từ 01/10/2024, trở thành hạ tầng kết nối trung tâm giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.

Tính đến thời điểm hiện tại, 100% doanh nghiệp sử dụng đầu số mã vạch Việt Nam (đầu mã 893) với trên 1,9 triệu sản phẩm đã được định danh; hơn 5.000 sản phẩm kê khai dữ liệu chuỗi đã được kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng. Ở cấp địa phương, 24 tỉnh, thành phố đã đưa hệ thống TXNG cấp tỉnh vào vận hành; trong đó 13 địa phương đã kết nối kỹ thuật với Cổng, 04 địa phương đã chia sẻ dữ liệu thành công gồm: Hưng Yên (Thái Bình cũ), An Giang (Kiên Giang cũ), Lào Cai (Yên Bái cũ) và Cần Thơ (Sóc Trăng cũ). Nhìn chung, Đề án 100 đã khẳng định vai trò quan trọng của TXNG trong quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng, an toàn và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Trong giai đoạn 2025 - 2030, các nhiệm vụ trọng tâm tập trung vào việc đẩy nhanh kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống TXNG cấp tỉnh với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia; hoàn thiện hạ tầng công nghệ, bảo đảm liên thông và khai thác hiệu quả dữ liệu. Mục tiêu đặt ra là: ít nhất 80% dữ liệu TXNG của các ngành hàng trong diện được chia sẻ lên Cổng; 150.000 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tham gia; 4 triệu sản phẩm được định danh; 100% sản phẩm rủi ro cao áp dụng TXNG bắt buộc; bảo đảm hệ thống công tác dự báo cung cầu và các chính sách dự báo rủi ro.

Tiểu My

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang