Truy xuất nguồn gốc – nâng cao giá trị hàng hoá Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu
(VietQ.vn) - Ngày 11/12/2025 tại Hà Nội, Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Đề án 100/QĐ-TTg và Hội thảo “Truy xuất nguồn gốc (TXNG) – Nâng cao giá trị hàng hoá Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” đã được tổ chức.
Trung Quốc ban hành hai tiêu chuẩn quốc gia bắt buộc đối với máy bay không người lái dân dụng
STAMEQ – ISO: Hướng tới mô hình phân phối tiêu chuẩn bền vững
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn thúc đẩy lĩnh vực công nghệ mới phát triển đồng bộ, bền vững
Hội nghị và Hội thảo lần này do Trung tâm Mã số, mã vạch Quốc gia (thuộc Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) thực hiện.
Tham dự chương trình có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định; Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia Nguyễn Nam Hải; Phó Tổng Giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam Phạm Mạnh Hùng, cùng đại diện các bộ, ban, ngành, địa phương, Sở KH&CN, các tổ chức, doanh nghiệp.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định
Phát biểu khai mạc hội nghị, Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia Nguyễn Nam Hải cho biết, sự kiện này đánh dấu nỗ lực của các Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp trong việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng để minh bạch hóa thông tin sản phẩm, hiện đại hóa phương thức quản lý và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Theo Chủ tịch Uỷ ban Nguyễn Nam Hải, trong 5 năm qua, hoạt động TXNG đã có nhiều chuyển đổi mạnh mẽ, hình thành hệ thống trên cơ sở hạ tầng dữ liệu thống nhất, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và đảm bảo quá trình thương mại hóa được minh bạch ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, đặc biệt khi các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc áp dụng các quy định mới về hộ chiếu số sản phẩm TXNG bắt buộc, Việt Nam cần phải khẳng định vị thế bằng các tiêu chuẩn tiên tiến và năng lực kết nối chuỗi cung ứng được số hóa.
Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia Nguyễn Nam Hải.
Ông Nguyễn Nam Hải cho biết thêm, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa và Luật sửa đổi bổ sung Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, trong đó, lần đầu tiên văn bản ở cấp độ Luật, Quốc hội và Chính phủ đã quyết tâm chính thức hoá pháp lý đưa vào khái niệm như hộ chiếu số sản phẩm và nhãn điện tử, những công cụ này chắc chắn phải gắn với biện pháp TXNG.
Khi đang chuẩn bị xây dựng Nghị định hướng dẫn thực hiện các Luật, chúng ta chưa bắt buộc hộ chiếu số sản phẩm và trong thời gian tới căn cứ vào đặc điểm của sản phẩm hàng hoá, căn cứ vào biện pháp của các thị trường tiềm năng, đặc biệt các thị trường lớn, chúng ta sẽ tính toán được lộ trình. Mặc dù hiện nay nhà nước chưa bắt buộc áp dụng hộ chiếu số sản phẩm nhưng việc chủ động tiếp cận những giải pháp, công nghệ là xu thế tất yếu, nhằm tránh những khó khăn khi đối mặt với rào cản kỹ thuật bắt buộc từ thị trường quốc tế sau này.
Phát biểu tại hội nghị, Phó Tổng Giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam Phạm Mạnh Hùng nhấn mạnh, Đề án 100 rất phù hợp với xu thế phát triển khi chúng ta phải chứng minh được uy tín, năng lực của nền sản xuất, của các thương hiệu Việt Nam. Điều này vừa đảm bảo được cạnh tranh minh bạch, sòng phẳng trên thương trường cũng như bảo vệ được người tiêu dùng khi áp dụng truy xuất hàng hóa và với sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, vấn đề này càng được quan tâm trong thời gian gần đây.
Phó Tổng Giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam Phạm Mạnh Hùng.
Sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm đánh giá khách quan, toàn diện kết quả triển khai Đề án 100 trong giai đoạn 2019–2025; phân tích những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân; đồng thời thảo luận, đề xuất định hướng và nhiệm vụ trọng tâm cho giai đoạn 2025–2030, phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển của thị trường.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập sâu rộng, các thị trường lớn ngày càng siết chặt yêu cầu về minh bạch thông tin, chất lượng và an toàn sản phẩm. TXNG đã trở thành điều kiện tiên quyết đối với hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là các nhóm sản phẩm có rủi ro cao. Việc triển khai Đề án 100 đã góp phần quan trọng trong hoàn thiện cơ sở pháp lý, tiêu chuẩn kỹ thuật và hạ tầng dữ liệu quốc gia về TXNG, tạo chuyển biến rõ nét tại nhiều bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp.
Hội nghị là dịp để các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhìn lại toàn diện hiệu quả triển khai hệ thống TXNG trên phạm vi cả nước, nhận diện thách thức, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời, đây cũng là diễn đàn kết nối đa ngành để chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, công nghệ mới và các mô hình triển khai hiệu quả.
Ông Bùi Bá Chính – Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch Quốc gia.
Trong khuôn khổ hội nghị, ông Bùi Bá Chính – Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch Quốc gia đã có bài tham luận chia sẻ về “Kết quả 5 năm thực hiện Đề án 100 của Chính phủ về TXNG”. Theo ông Chính, sau 5 năm triển khai, hệ thống pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật về TXNG đã từng bước được hoàn thiện, tạo nên tảng quan trọng cho việc áp dụng thống nhất trên phạm vi quốc gia.
Về tiêu chuẩn quốc gia, cho đến nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố 35 tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về TXNG và mã truy vết, định danh sử dụng trong truy xuất nguồn gốc. Bao gồm các nhóm tiêu chuẩn về: mã truy vết; định danh; tiêu chuẩn quy định chung cho hệ thống TXNG; tiêu chuẩn TXNG cho sản phẩm thịt gia súc, gia cầm, sữa và các sản phẩm từ sữa, thủy sản… Các tiêu chuẩn này đã bao phủ hầu hết các nhóm sản phẩm chủ lực cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền tảng kỹ thuật, giúp các địa phương triển khai thống nhất, đồng bộ.
Về pháp luật, Bộ Khoa học và Công nghệ được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Luật TXNG để bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá, đồng thời tích hợp thêm các quy định về quản lý và tổ chức thực hiện TXNG. Luật sửa đổi sẽ bổ sung một số điều trong các luật khác. Tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội, dự thảo Luật này đã được Quốc hội cho ý kiến ngày 18/6/2025. Hiện nay, Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật đang được Bộ hoàn thiện để bảo đảm yêu cầu cấp bách xử lý các tồn đọng trong TXNG một cách phù hợp và bắt buộc với nhóm hàng hoá rủi ro cao.
Cũng theo ông Chính, trong giai đoạn 2019–2025, công tác triển khai Đề án 100 tại địa phương đã được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể, 100% trong số 34 tỉnh, thành phố (mới) đã sắp xếp ổn định bộ máy; xây dựng và ban hành Kế hoạch triển khai Đề án phù hợp với điều kiện của địa phương; triển khai thí điểm TXNG cho các nhóm sản phẩm chủ lực, trong đó có nông sản, sản phẩm OCOP nhằm hỗ trợ TXNG; góp phần phục vụ công tác quản lý; phát triển kinh tế nông thôn; xây dựng thương hiệu và chuyển đổi số ngành nông nghiệp.
Công tác tuyên truyền, phổ biến và đào tạo được triển khai đều đặn từ trung ương đến địa phương. Trong giai đoạn 2019–2025, cả nước đã tổ chức trên 10.000 khóa đào tạo về TXNG, thu hút trên 1 triệu lượt doanh nghiệp, hợp tác xã trực tiếp và trực tuyến, góp phần nâng cao nhận thức và năng lực triển khai hệ thống một cách bền vững.
Song song với đó, nhiều địa phương đã đầu tư xây dựng và vận hành hệ thống TXNG cấp tỉnh, từng bước kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia. Công thông tin chính thức vận hành từ 01/10/2024, trở thành hạ tầng kết nối trung tâm giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.
Ông Chính bày tỏ, tính đến thời điểm báo cáo, 100% doanh nghiệp sử dụng đầu số mã vạch Việt Nam (đầu mã 893) với trên 1,9 triệu sản phẩm đã được định danh; hơn 5.000 sản phẩm kê khai dữ liệu chuỗi đã được kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng. Ở cấp địa phương, 24 tỉnh, thành phố đã đưa hệ thống TXNG cấp tỉnh vào vận hành; trong đó 13 địa phương đã kết nối kỹ thuật với Cổng, và 04 địa phương đã chia sẻ dữ liệu thành công gồm: Hưng Yên (Thái Bình cũ), An Giang (Kiên Giang cũ), Lào Cai (Yên Bái cũ) và Cần Thơ (Sóc Trăng cũ).
“Nhìn chung, Đề án 100 đã khẳng định vai trò quan trọng của TXNG trong quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng, an toàn và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, ông Chính khẳng định.
Ông Chính chia sẻ thêm, trong giai đoạn 2025–2030, các nhiệm vụ trọng tâm sẽ tập trung vào việc đẩy nhanh kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống TXNG cấp tỉnh với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia; hoàn thiện hạ tầng công nghệ, bảo đảm liên thông và khai thác hiệu quả dữ liệu. Mục tiêu đặt ra là: ít nhất 80% dữ liệu TXNG của các ngành hàng trong diện được chia sẻ lên Cổng; 150.000 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tham gia; 4 triệu sản phẩm được định danh; 100% sản phẩm rủi ro cao áp dụng TXNG bắt buộc; bảo đảm hệ thống công tác dự báo cung cầu và các chính sách dự báo rủi ro.
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định đánh giá, sau 5 năm triển khai, Đề án 100 đã chứng minh tính đúng đắn của một chủ trương lớn. 5 năm qua là một hành trình nỗ lực không ngừng của các cơ quan quản lý, các bộ ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học. Từ chỗ TXNG còn là khái niệm tương đối mới mẻ, đến nay chúng ta đã xây dựng được nền tảng chính sách, mô hình triển khai và hệ thống kết nối tương đối đồng bộ, góp phần quan trọng vào minh bạch thông tin sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Cũng theo Thứ trưởng Lê Xuân Định, thế giới đang dịch chuyển rất nhanh. EU triển khai Quy định về Thiết kế sinh thái cho sản phẩm- ESPR và Hộ chiếu số sản phẩm – DPP, đòi hỏi dữ liệu xuyên suốt vòng đời sản phẩm. Nhiều thị trường xuất khẩu lớn yêu cầu tiêu chuẩn bắt buộc về thông tin, về môi trường, về tính bền vững.
Trong nước, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo - chuyển đổi số là một trong những đột phá chiến lược mới. Điều đó tạo ra áp lực, nhưng đồng thời cũng tạo ra cơ hội to lớn để chúng ta đưa TXNG trở thành “xương sống” của quản lý chất lượng, và là động lực phát triển của hệ sinh thái sản xuất - kinh doanh hiện đại. Thứ trưởng bày tỏ, trong giai đoạn tới, Đề án 100 phải chuyển từ “triển khai” sang “đột phá”, phải chuyển từ “thí điểm” sang “chuẩn hóa”, phải chuyển từ “kết nối kỹ thuật” sang “liên thông dữ liệu quốc gia”.
Toàn cảnh hội nghị.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, thay mặt Lãnh đạo Bộ KH&CN, Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh một số nhiệm vụ trọng tâm, thứ nhất, hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý mạnh và đồng bộ. Triển khai hiệu quả các Thông tư, Nghị định hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa 2025 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Bên cạnh đó, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo hướng minh bạch và hài hòa quốc tế.
Thứ hai, phát triển nền tảng số quốc gia về TXNG hiện đại, an toàn, liên thông quốc tế. Nền tảng số quốc gia về TXNG phải được nâng cấp để đảm bảo dữ liệu được thu thập, lưu trữ, chia sẻ kết hợp giữa tập trung và phân tán để phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước, hỗ trợ cho doanh nghiệp và minh bạch thông tin cho người tiêu dùng. Đồng thời, có khả kết nối và liên thông dữ liệu chuyên ngành với các hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ - chuyển đổi số quy trình sản xuất kinh doanh gắn với TXNG. Bộ KH&CN sẽ tiếp tục đồng hành, phối hợp địa phương triển khai các chương trình: Hỗ trợ kỹ thuật; Tư vấn giải pháp số phù hợp; Hình thành các mô hình thí điểm theo ngành hàng và theo vùng.
Thứ trưởng nhấn mạnh yêu cầu đối với địa phương và doanh nghiệp, TXNG không phải là một thủ tục hành chính mới, mà là một giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị. Những doanh nghiệp triển khai tốt TXNG trong 5 năm qua đã chứng minh rằng, minh bạch dữ liệu đem lại giá trị thực, tăng khả năng truy cập thị trường, nâng cao giá bán, giảm rủi ro pháp lý, và cải thiện quản trị nội bộ.
Thứ trưởng đề nghị các địa phương tăng tốc hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp. Các sở ngành phải đóng vai trò đầu tàu trong việc tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra và thúc đẩy triển khai. Không còn chỗ cho sự chậm trễ hoặc triển khai mang tính hình thức.
Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cho TXNG. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp công nghệ phát triển giải pháp mở, chi phí hợp lý; Khuyến khích ứng dụng AI, cảm biến, blockchain bảo đảm tính chính xác và minh bạch dữ liệu.
Thứ năm, nâng cao nhận thức của xã hội, tạo sự đồng lòng và lan tỏa. TXNG không chỉ để quản lý mà quan trọng hơn là để bảo vệ người tiêu dùng, khẳng định thương hiệu Việt, và nâng tầm giá trị của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
“Thành công của Đề án 100 trong 5 năm qua là minh chứng rõ ràng rằng, khi chúng ta có tầm nhìn đúng, có quyết tâm cao và có sự chung tay của cả hệ thống, thì bất cứ nhiệm vụ nào cũng có thể đạt được”, Thứ trưởng khẳng định.
Trong khuôn khổ Hội nghị, Hội thảo “Truy xuất nguồn gốc – Nâng cao giá trị hàng hoá Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” được tổ chức với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành, cơ quan quản lý, chuyên gia trong nước và quốc tế cùng đông đảo doanh nghiệp. Các nội dung tập trung vào những điểm mới của luật sửa đổi bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2025, yêu cầu từ thị trường xuất khẩu và các giải pháp công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, minh bạch thông tin và gia tăng giá trị hàng hoá Việt Nam.
Hội nghị và Hội thảo là diễn đàn quan trọng để cơ quan quản lý, doanh nghiệp và chuyên gia chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất chính sách và xác định mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo, góp phần hoàn thiện hệ thống TXNG quốc gia.
Hà My









