Đến năm 2030 xe điện phải chiếm 1/3 để góp phần giảm phát thải khí nhà kính

author 06:14 04/11/2024

(VietQ.vn) - Trước tình trạng các phương tiện giao thông hiện nay gây ra nhiều vấn đề ô nhiễm không khí Bộ Giao thông vận tải đã đặt ra lộ trình đến năm 2030 xe điện phải sớm chiếm 1/3.

Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, ngày càng có nhiều người dân sở hữu các phương tiện cá nhân như xe ô tô, xe máy. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều lượng khí thải được thải ra khiến môi trường trở nên ngột ngạt.

Trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí đã trở thành vấn đề nóng và nhận được sự quan tâm lớn của cộng đồng. Ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng 60.000 người chết có liên quan đến ô nhiễm không khí. Hiện nay, ô nhiễm không khí tiếp tục gia tăng với tốc độ đáng báo động và ngày càng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người.

Có thể nói, mặc dù tại Việt Nam, các cơ quan chức năng đã rất nỗ lực và đưa ra rất nhiều giải pháp, tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm khí thải từ các phương tiện giao thông vẫn nhức nhối. Giao thông vận tải là một trong những hoạt động chủ yếu phát thải khí nhà kính, lớn thứ ba sau ngành năng lượng và nông nghiệp, chiếm 18,38% tổng lượng khí nhà kính thải vào khí quyển hàng năm. 

Theo dự báo, tại nước ta mỗi năm phát thải khí nhà kính sẽ tăng trung bình 6-7%, đạt gần 90 triệu tấn CO2 vào năm 2030. Trong đó, vận tải đường bộ là nguồn phát thải CO2 cao nhất, chiếm khoảng 80% lượng phát thải toàn ngành, vận tải đường thủy (gồm thủy nội địa và ven biển) chiếm 10%; hàng không chiếm 6%; đường sắt là không đáng kể. Tính theo đơn vị sản lượng vận tải, vận tải đường thủy phát thải thấp nhất, sau đó đến đường sắt, hàng không và cuối cùng là đường bộ có mức phát thải cao nhất.

Phấn đấu đến năm 2030 xe điện sẽ chiếm 1/3 giúp giảm phát thải khí nhà kính. Ảnh minh họa

Ở các đô thị, giao thông vận tải là nguồn gây ô nhiễm không khí lớn nhất, đặc biệt là sự phát thải vào khí quyển như bụi, các khí CO, VOC và NO2 từ ô tô, xe máy và các phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch để hoạt động. Khi các phương tiện này sử dụng nhiên liệu để vận hành, động cơ sẽ phát thải một lượng lớn các chất khí có thành phần độc hại gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người tham gia giao thông và những người dân sinh sống dọc các tuyến đường giao thông. Lượng phát thải các khí này tăng lên hàng năm cùng với sự gia tăng về số lượng của các phương tiện giao thông đường bộ.

Đặc biệt, khi xảy ra tình trạng ùn ứ giao thông, mức độ ô nhiễm hơi xăng dầu có thể tăng lên 4 - 5 lần so với lúc bình thường. Ô nhiễm khí CO và hơi xăng dầu (HC) thường xảy ra ở các nút giao thông lớn. Do đó, nguồn khí thải từ giao thông vận tải đang trở thành một nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi trường không khí ở đô thị, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

Thông tin về tình trạng này, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) cho biết, so với các nước tiên tiến trên thế giới, lượng phát thải khí nhà kính do các hoạt động giao thông vận tải tại Việt Nam khá cao, chủ yếu do phương tiện cũ, lạc hậu, tuổi đời cao; kết cấu hạ tầng chất lượng kém, kết nối chưa thuận lợi dẫn đến nhiều điểm ách tắc giao thông; tổ chức vận tải chưa hiệu quả, vận tải đường bộ chiếm thị phần cao, tỷ lệ xe chạy rỗng lớn, giao thông công cộng chiếm tỷ trọng khiêm tốn tại các đô thị.

Trước thực trạng này, Bộ GTVT vừa ban hành kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực giao thông vận tải giai đoạn đến năm 2030. Theo đó, bộ này đặt ra mục tiêu đến năm 2030 giảm 5,9% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng giảm 45,62 triệu tấn CO2 trong toàn giai đoạn.

Trong đó, giới hạn mức tiêu thụ nhiên liệu đối với xe cơ giới sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới; đến năm 2030 bảo đảm 100% xe máy đạt định mức tiêu thụ nhiên liệu 2,3 lít/100km. 100% ô tô con sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới đạt định mức tiêu thụ nhiên liệu như sau: Dung tích động cơ dưới 1400cc đạt 4,7 lít/100km; dung tích động cơ từ 1.400-2.000cc đạt 5,3 lít/100km; dung tích động cơ trên 2.000cc đạt 6,4 lít/100km. Tỷ lệ áp dụng cho phương tiện mới lần lượt là 30% vào năm 2027, 50% vào năm 2028, 75% vào năm 2029 và 100% vào năm 2030.

Về biện pháp chuyển đổi từ sử dụng phương tiện cá nhân sang sử dụng phương tiện giao thông công cộng, Bộ Giao thông vận tải đặt mục tiêu tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại Hà Nội là 45-50%, thành phố Hồ Chí Minh 25%, đô thị loại I ít nhất 5%.

Đến năm 2030, có một tuyến xe buýt nhanh BRT/xe buýt chất lượng cao hoạt động tại Hà Nội, hai tuyến buýt nhanh BRT/xe buýt chất lượng cao hoạt động tại TPHCM và một tuyến buýt nhanh BRT/xe buýt chất lượng cao hoạt động tại Đà Nẵng.

Cùng với đó, Bộ GTVT đặt mục tiêu chuyển đổi phương thức vận tải từ đường bộ sang các phương thức vận tải thân thiện môi trường như đường sắt, đường thủy nội địa và đường ven biển; tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng đường sắt, đường thủy; khuyến khích sử dụng nhiên liệu sinh học, sử dụng 100% xăng E5 đối với các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vào năm 2030...

Đặc biệt, Bộ GTVT đặt ra lộ trình đến năm 2030, ô tô điện đạt tỷ lệ 30%; xe máy điện chiếm 22% tổng số xe máy sử dụng. Đến năm 2025, bắt đầu sử dụng xe buýt điện và ước đạt tỷ lệ sử dụng 30% vào 2030.

Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6438:2018 về phương tiện giao thông đường bộ- giới hạn lớn nhất cho phép của khí thải

Bộ Khoa học và Công nghệ công bố tiêu chuẩn này nhằm đưa ra mức giới hạn lớn nhất cho phép của các chất gây ô nhiễm: Cacbonmonoxit (CO), Hydrocacbon (HC) trong khí thải của động cơ cháy cưỡng bức và độ khói trong khí thải của động cơ cháy do nén được lắp trên xe đang lưu hành.

Yêu cầu phát thải, tiêu chuẩn đưa ra giá trị giới hạn lớn nhất cho phép của nồng độ CO, HC và độ khói trong khí thải của các loại phương tiện được quy định trong đó khí thải CO đối với ô tô ở mức 1: 4,5%, mức 2: 3,5%, mức 3: 3%, mức 4: O,5%. Đối với mô tô và xe máy là 4,5% ở cả 4 mức. Độ khói của xe máy và mô tô lần lượt là 72,60,50,45%.

An Dương

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang