80 năm kinh tế Việt Nam: Từ gian khó thời chiến đến khát vọng 'kỷ nguyên vươn mình'

author 08:41 02/09/2025

(VietQ.vn) - Trải qua 80 năm với những biến động lịch sử và thăng trầm thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã đi một hành trình đặc biệt: từ nông nghiệp tự cung tự cấp, qua thời kỳ bao cấp đến đổi mới và hội nhập quốc tế. Theo PGS. TS Lê Bộ Lĩnh, bài học xuyên suốt là tư duy độc lập, tự chủ – nền tảng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên mạnh mẽ.

Sự kiện: KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng 8 thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phóng viên đã có cuộc trao đổi với PGS. TS. Lê Bộ Lĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Kinh tế, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội về hành trình đặc biệt này.

80 năm phát triển kinh tế của Việt Nam: Bài học của tư duy độc lập, tự chủ

Thưa ông, xin ông chia sẻ góc nhìn tổng quan về sự phát triển kinh tế Việt Nam trong suốt 80 năm qua?

Nhìn tổng quan kinh tế Việt Nam trong 80 năm qua là một điều rất thú vị nhưng cũng không dễ dàng.

Muốn đánh giá quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong 80 năm qua, chúng ta cần có cách tiếp cận toàn diện. Theo tôi, đây là một công việc lớn, một công trình nghiên cứu chuyên sâu về 80 năm phát triển kinh tế rất cần có sự tham gia của các chuyên gia và là công việc cần thiết trong dịp kỷ niệm 80 năm thành lập nước. Công trình này không chỉ để nhìn lại quá khứ, quan trọng hơn là để xác định xu hướng phát triển đến năm 2045, tức mốc 100 năm thành lập đất nước.

Quay trở lại cột mốc 80 năm phát triển kinh tế, tôi cho rằng có thể tiếp cận từ hai góc độ. Thứ nhất, phải đặt sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong dòng chảy chung của kinh tế thế giới. Thứ hai, nhìn nhận tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc.

Bởi lẽ, từ năm 1945 đến nay, kinh tế thế giới trải qua những giai đoạn chuyển đổi rất căn bản. Năm 1945 không chỉ là mốc quan trọng với Việt Nam mà là mốc của cả thế giới, đây là thời điểm kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai, mở ra thời kỳ phân cực Đông – Tây, dẫn tới sự đối đầu giữa hai mô hình: Kinh tế kế hoạch hóa tập trung gồm các nước xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường bao gồm các nước tư bản chủ nghĩa.

Ảnh minh họa.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, thế giới chuyển sang thời kỳ Chiến tranh lạnh, tuy không trực tiếp đối đầu như thời kỳ chiến tranh “nóng” nhưng không kém phần gay gắt bởi bản chất của Chiến tranh lạnh là chạy đua quân sự và khoa học kỹ thuật, kinh tế để giành ưu thế.

Ở phía tư bản, nước Mỹ tiếp tục khẳng định vị trí thống trị trong thế kỷ XX và là nước được lợi trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Quốc gia này tiếp tục tập trung vào khoa học công nghệ để khẳng định vai trò lãnh đạo thế giới, về mặt quân sự, kinh tế cũng như khoa học công nghệ.

Trong khi đó, Nhật Bản và Tây Đức, hai nước bại trận trong Thế chiến thứ hai lại trở thành các quốc gia có bước phục hồi kinh tế “ngoạn mục”, tạo nên những “kỳ tích” kinh tế, góp phần hình thành ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới: Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu, trong đó Tây Đức là nền kinh tế đầu tàu.

Mặt khác, cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật cũng giúp một số quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á đi theo kinh tế thị trường bứt phá lên, được gọi là các “nền kinh tế công nghiệp mới” (NICs), bao gồm: Hàn quốc, Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc), Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan, Malaysia.

Ở khối xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô cũng đã có bước chuyển mình mạnh mẽ vào những thập niên đầu sau chiến tranh. Bên cạnh Liên Xô, Đông Đức và các nước Đông Âu cũng có tốc độ công nghiệp hóa tập trung rất mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn 1970 - 1980, điều này giúp khối xã hội chủ nghĩa tạo thế cân bằng so với khối tư bản chủ nghĩa.

Thế nhưng, từ những năm 80 của thế kỷ XX, các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng về mô hình phát triển. Việc đi theo kinh tế kế hoạch hóa tập trung tuy có ý nghĩa nhất định sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 nhưng sau đó lại bộc lộ những hạn chế, dẫn đến khủng hoảng cuối những năm 1980, sự sụp đổ của thế giới hai cực và sự chấm dứt của thời kỳ Chiến tranh Lạnh vào đầu những năm 1990.

Sau đó, thế giới bước vào kỷ nguyên hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ, tái lập nền kinh tế thế giới thống nhất với vai trò của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kéo dài đến đầu thế kỷ XXI. Dù vậy, toàn cầu hóa cũng dẫn đến các khủng hoảng như khủng hoảng tài chính, rạn nứt chuỗi cung ứng, chủ nghĩa dân tộc kinh tế nổi lên…

Tất cả những điều đó cho thấy Việt Nam trong 80 năm qua đã liên tục chịu tác động từ biến động của kinh tế thế giới cả về mô hình và động thái phát triển.

Trong bối cảnh thế giới biến động như vậy, Việt Nam có những đặc điểm gì riêng biệt trong tiến trình phát triển kinh tế, thưa ông?

Việt Nam là nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp, tiểu nông, tự cung tự cấp, từng là thuộc địa. Sau khi giành được độc lập vào năm 1945, thay vì tập trung phát triển kinh tế, chúng ta lại phải bước vào các cuộc kháng chiến lớn: chống Pháp, chống Mỹ, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam.

 
“Vươn mình” không chỉ là dấu hiệu của sự trưởng thành, mà còn là hiệu lệnh đổi mới sâu sắc. Phải vượt lên chính mình, bứt phá về tư duy, thể chế và hành động thì mới có thể đón đầu được các cơ hội mới.
 

Gần như nửa chặng đường của 80 năm, trong khi thế giới đang bước vào cạnh tranh kinh tế và khoa học công nghệ thì chúng ta phải tập trung toàn lực cho chiến tranh, thống nhất đất nước và bảo vệ tổ quốc. Đây là điểm đặc thù, đồng thời cũng là trở ngại lớn khiến Việt Nam không thể tập trung hoàn toàn vào phát triển kinh tế sau khi giành được độc lập như một số nền kinh tế, như một quốc gia độc lập.

Như vậy, có thể chia chặng đường 80 năm phát triển kinh tế thành hai giai đoạn: 40 năm đầu là kinh tế thời chiến, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phụ thuộc viện trợ. 40 năm sau là thời kỳ đổi mới, phát triển theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Ông có thể phân tích kỹ hơn hai giai đoạn này?

Sau khi giành độc lập vào năm 1945, Việt Nam mất thêm 10 năm nữa để kháng chiến chống thực dân Pháp, phụ thuộc vào viện trợ của các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa để có nguồn lực kháng Pháp, giành được chiến thắng vĩ đại. Giai đoạn năm 1954–1975, đất nước bị chia cắt. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng thực chất vẫn là kinh tế thời chiến, dành tất cả nguồn lực tập trung cho kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước.

Sau năm 1975, đất nước thống nhất, nhưng tiếp tục đối mặt với chiến tranh biên giới. Như vậy, 40 năm đầu khắc họa một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thời chiến dựa trên nền tảng kinh tế vừa thoát khỏi thuộc địa, dựa trên nền nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp kém phát triển và phụ thuộc viện trợ bên ngoài. Đấy là nền kinh tế đặc thù của giai đoạn đó.

Mặc dù trong điều kiện kinh tế như vậy, chúng ta vẫn đạt được những thành quả nhất định. Nếu không có những thành quả đó, ta sẽ không giành được những thắng lợi về quân sự và chính trị. Đó là kết quả của việc huy động toàn dân, toàn lực cho kháng chiến và cũng là thành công của mô hình phù hợp với bối cảnh lúc đó.

Đặt giả thiết khác, nếu chúng ta không có ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh thì với mô hình đó vẫn có thể có các thành tựu kinh tế lớn hơn, có những tiền đề tốt hơn như một số nước ở Đông Âu, Trung Quốc. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, về phương diện lý thuyết và thực tế kế hoạch hóa tập trung là mô hình kinh tế không bền vững, gây ra tình trạng thiếu hụt, trì trệ và dẫn tới khủng hoảng như ta đã thấy.

Từ năm 1986, trong xu hướng cải cách, cải tổ ở các nước XHCN, chúng ta bước vào kỷ nguyên đổi mới và hội nhập. Những thành tựu đạt được trong 40 năm qua là rất ấn tượng, từ một đất nước thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu; từ một nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, sôi động từ nền kinh tế khép kín trở thành một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới – với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt 200% GDP.

Cơ cấu kinh tế thay đổi rõ rệt, từ xuất khẩu nông sản thô sang các sản phẩm chế tạo. Nền kinh tế dân doanh phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò lớn trong tăng trưởng, tạo việc làm. Cùng với đó là tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo ra các thực thể kinh tế thị trường đa dạng. Việt Nam đã được 70 quốc gia công nhận là nền kinh tế thị trường.

Chúng ta cũng là nước tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) nhất, thu hút FDI mạnh mẽ và trở thành một mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, 40 năm qua thế giới cũng bước vào cuộc cách mạng công nghệ mạnh mẽ, đặc biệt là công nghệ số, AI, dữ liệu lớn… và chúng ta chưa tận dụng tốt cơ hội đó. Sự chuẩn bị của chúng ta về thể chế, hạ tầng, nguồn lực cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 còn chậm, là một hạn chế lớn.

PGS. TS Lê Bộ Lĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Kinh tế, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.

Trong suốt 80 năm phát triển, theo ông, bài học lớn nhất về phát triển kinh tế là gì?

Bài học quan trọng nhất là phải có tư duy độc lập, tự chủ. Chỉ khi có tư duy độc lập, tự chủ mới có sáng tạo, ngược lại nếu cứ mãi phụ thuộc sẽ không có sáng tạo. Đây là tư duy xuyên suốt cả thời chiến và thời bình. Dù vậy, độc lập, tự chủ không có nghĩa là khép kín, mà là hiểu rõ mình và hoàn cảnh, từ đó định hình được đường lối phù hợp.

Ví dụ, sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, tình hình rất bất định. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam không sao chép mô hình từ nước ngoài, không theo “liệu pháp sốc” mà lựa chọn đổi mới theo cách riêng, đó là cải cách từ thực tiễn, như khoán hộ trong nông nghiệp, tự do hóa nền kinh tế, quan hệ thương mại với thế giới mà không phân biệt chế độ chính trị,…

Chính tư duy độc lập, tự chủ đó đã tạo thành “thương hiệu” riêng của Việt Nam, giúp chúng ta vượt qua khủng hoảng và duy trì ổn định.

Về đường lối chính sách xuyên suốt có hai động lực quan trọng là chuyển sang kinh tế thị trường và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Chính hai động lực, hai xu hướng lớn này làm thay đổi diện mạo và cơ cấu nền kinh tế Việt Nam 40 năm qua.

Thưa ông, với những chuyển biến mạnh mẽ trong và ngoài nước hiện nay, Việt Nam đã chuẩn bị những gì để bước vào “Kỷ nguyên vươn mình”. Khái niệm này mang ý nghĩa gì trong bối cảnh phát triển hiện tại?

Theo tôi, “Kỷ nguyên vươn mình” không chỉ mang ý nghĩa nội tại của Việt Nam mà còn phản ánh bước chuyển mình của cả nhân loại trong kỷ nguyên số, cách mạng trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, khác xa với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.

 
Chỉ khi có tư duy độc lập, tự chủ mới có sáng tạo, ngược lại nếu cứ mãi phụ thuộc sẽ không có sáng tạo. Đây là tư duy xuyên suốt cả thời chiến và thời bình. Dù vậy, độc lập, tự chủ không có nghĩa là khép kín, mà là hiểu rõ mình và hoàn cảnh, từ đó định hình được đường lối phù hợp.
 

Kỷ nguyên phát triển mới mang tính thời đại, một thời kỳ thay đổi lớn mang tính cách mạng về công nghệ, thương mại và cả chính trị, xã hội với những thách thức về phát triển bền vững.

Chúng ta đang đứng trước thách thức và thời cơ của một kỷ nguyên mang tính toàn cầu và yêu cầu đổi mới hơn nữa sau khi dư địa của giai đoạn trước dần cạn kiệt.

Và khi nói đó là “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” thì hàm ý ở đây không chỉ là thời điểm, một giai đoạn lịch sử mới, sau khi chúng ta trả qua một giai đoạn tạo lập thế và lực, tạo ra những nền tảng nhất định trước một giai đoạn lịch sử mới của nhân loại mà còn như một hiệu lệnh. Hiệu lệnh ở đây là vươn mình thoát khỏi trình độ phát triển thấp, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình hay mắc kẹt trong trạng thái trì trệ, nói theo ngôn ngữ văn kiện là bị tụt hậu.

Việt Nam phải thoát khỏi những ràng buộc, hạn chế, điểm nghẽn về mặt thể chế, nền tảng khoa học công nghệ và hạ tầng mà 40 năm qua chưa vượt qua. Nếu chúng ta vẫn đi lên theo cách 40 năm vừa rồi chúng ta đi thì tốc độ sẽ chậm và không còn tương thích với kỷ nguyên phát triển của nhân loại.

Vì vậy, “vươn mình” không chỉ là dấu hiệu của sự trưởng thành, mà còn là hiệu lệnh đổi mới sâu sắc. Phải vượt lên chính mình, bứt phá về tư duy, thể chế và hành động thì mới có thể đón đầu được các cơ hội mới.

80 năm nhìn lại: Một đời người giữa sự chuyển mình của đất nước

Khi đã từng sống trong thời kỳ bao cấp và chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước trong những thập niên gần đây, ông cảm thấy thế nào?

Có thể nói, so với thời kỳ bao cấp, đất nước hôm nay đã thay đổi một trời một vực. Thời ấy, nếu nghĩ đến tương lai cùng lắm chỉ tưởng tượng sẽ có thêm khẩu phần, hàng hóa dồi dào hơn, được mua những gì mình cần qua hệ thống thương mại quốc doanh, chứ không ai có thể hình dung đến một nền kinh tế thị trường sôi động, hàng hóa phong phú, tiêu dùng đa dạng như hiện nay.

Từ nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, đi lại, đến những thứ xa xỉ như công nghệ, giải trí, tất cả đều phát triển vượt xa tưởng tượng của thế hệ chúng tôi 50 năm trước.

Riêng về công nghệ, sự thay đổi là cấp số nhân. Chỉ lấy ví dụ về thông tin liên lạc: từ điện thoại dây công cộng đến điện thoại di động rồi điện thoại thông minh như hiện nay có lẽ nhiều người không hình dung được 30 năm về trước. Hồi tôi còn học ở Nga, muốn gọi điện thoại về nhà phải đăng ký trước, rồi người thân phải ra bưu điện Bờ Hồ để chờ điện thoại công cộng. Sau đó, khi có điện thoại bàn là đã hiện đại lắm rồi.

Đến đầu những năm 1990, điện thoại di động xuất hiện nhưng rất hiếm, giá tương đương cả mấy cây vàng. Lúc đó, có điện thoại di động là “đặc quyền” của đại gia.

Giờ đây, điện thoại thông minh, Internet, mạng xã hội, AI… đang làm thay đổi hoàn toàn cách sống, làm việc và giao tiếp. Và tôi tin rằng, chỉ 10 năm nữa sẽ còn rất nhiều điều mà hiện tại chúng ta cũng chưa thể tưởng tượng ra. Điều đó không chỉ là cơ hội mà là những thách thức rất lớn trong những năm tới.

Tôi nghĩ sự chuyển mình của đất nước không chỉ nhờ đổi mới về kinh tế mà còn là sự thay đổi trong tư duy, sự thay đổi trong chính con người với ý thức vượt lên thử thách, sáng tạo và khát vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế hệ chúng tôi, sinh ra trong hòa bình, lớn lên trong chiến tranh, rèn luyện trong bao cấp, trưởng thành trong đổi mới, có thể cảm nhận sâu sắc nhất sự thay đổi đó. Và cũng chính sự trải nghiệm đó giúp chúng tôi trân trọng hơn những gì đất nước đang có hôm nay.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Việt Vũ - Thanh Hiền (thực hiện)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang