Đồng bộ giải pháp kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường: Yêu cầu tất yếu

(VietQ.vn) - Dưới sức ép gia tăng chất thải, biến đổi khí hậu và suy thoái tài nguyên, việc đồng bộ hoá giải pháp kinh tế tuần hoàn với bảo vệ môi trường trở thành yêu cầu cấp thiết tại Việt Nam.
Thực hành nền kinh tế tuần hoàn, hướng doanh nghiệp phát triển bền vững
Kinh tế tuần hoàn cho tấm pin năng lượng mặt trời: Tổng quan chính sách tại một số quốc gia
Chủ động triển khai các giải pháp thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, sản xuất, tiêu dùng bền vững, thương mại bền vững
Ô nhiễm nhựa tại Việt Nam: Thách thức và con đường hướng tới kinh tế tuần hoàn
Phân loại, thu gom và tái chế chất thải rắn sinh hoạt
Thông tin từ Tiểu ban Tăng trưởng xanh thuộc EuroCham, theo Luật bảo vệ môi trường năm 2020, từ ngày 01/01/2025, chất thải rắn sinh hoạt phải được phân loại tại nguồn ngay từ từng hộ gia đình, sau đó mới được thu gom, tập kết và vận chuyển. Trên thực tế, dù có quy định rõ ràng, việc phân loại tại hộ vẫn chưa được thực hiện đồng bộ: nhiều nơi thiếu thùng đựng phân loại, hệ thống thu gom chưa tương thích dẫn đến rác tách riêng vẫn đổ chung khi tập kết. Mỗi ngày, cả nước thải ra khoảng 68 000 tấn rác thải, trong đó khu vực đô thị hơn 38 000 tấn; tỷ lệ thu gom toàn quốc đạt trên 88%, nhưng hơn 76% rác thu gom vẫn được chôn lấp, gây lãng phí tài nguyên và nguy cơ ô nhiễm cao.
Ảnh minh hoạ.
Trong khi đó, quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) chính thức có hiệu lực từ 01/01/2024, nhưng hiệu quả còn hạn chế khi chất thải đưa vào tái chế có chất lượng thấp, làm tăng chi phí. Ví dụ, chi phí tái chế một chai nhựa cao hơn 20-30% so với sản xuất từ nguyên sinh, khiến chai tái chế kém cạnh tranh. Bao bì phức hợp, nhựa cứng hay đa lớp càng khó thu gom và xử lý.
Cơ chế phí EPR hiện không phân biệt tỷ lệ tái chế trong bao bì, giảm động lực cho doanh nghiệp sử dụng vật liệu tái chế. Thiếu khuyến khích cho bao bì tái sử dụng khiến thị trường tái chế chưa phát triển, hạ tầng quản lý chất thải tại địa phương yếu kém càng làm giảm hiệu quả của EPR và mô hình kinh tế tuần hoàn.
Giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn
Ngày 26/72022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 8965, mục tiêu tổng quát chủ động thích ứng hiệu quả, giảm mức độ dễ bị tổn thương, tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu; giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đóng góp tích cực và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất; tận dụng cơ hội từ ứng phó biến đổi khí hậu để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế.
Trước đó, ngày 07 tháng 01 năm 2022, Chính phủ ban hành Nghị định 066 quy định chi tiết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-dôn, tổ chức và phát triển thị trường carbon. Nghị định áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động phát thải khí nhà kính, giảm nhẹ phát thải và hấp thụ khí nhà kính; tham gia phát triển thị trường carbon trong nước; sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, tiêu thụ và xử lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn.
Tiếp đó, vào đầu năm 2024, Chính phủ ban hành Dự thảo Nghị định (Dự thảo Nghị định) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 06, đề xuất làm rõ vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, phát triển thị trường carbon, bảo vệ tầng ô-dôn và điều tiết quản lý tín chỉ carbon. Những sửa đổi này được kỳ vọng sẽ tăng cường khung pháp lý để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, doanh nghiệp đang gặp khó khi chưa được giao hạn ngạch phát thải cụ thể cho giai đoạn bắt đầu từ 2026, khiến kế hoạch giảm phát thải thiếu cơ sở thực tiễn. Việc phân biệt “bên tham gia trao đổi tín chỉ carbon” và “bên tham gia cơ chế bù trừ tín chỉ” còn lẫn lộn, thiếu hướng dẫn rõ ràng về thủ tục, biểu mẫu đăng ký. Để thị trường carbon vận hành hiệu quả, cần chuẩn hoá quy trình giao dịch, bù trừ và đảm bảo tính minh bạch, tương thích với tiêu chuẩn quốc tế, giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận, đồng thời thu hút đầu tư cho dự án giảm phát thải.
Quản lý tài nguyên nước – giải pháp hạ tầng xanh – xanh
Theo Tiểu ban Tăng trưởng xanh, tài nguyên nước Việt Nam đang đối mặt với ô nhiễm, khai thác quá mức và tác động của biến đổi khí hậu: xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long, ô nhiễm nước thải chưa xử lý, hạn chế tiếp cận nước sạch ở nông thôn… Với nhu cầu nước tăng 32% vào năm 2030, đại diện cho khoản đầu tư khoảng 9 tỷ đô-la Mỹ cho xử lý và thoát nước, việc nâng tỷ lệ thu gom nước thải hiện ở mức 60% và xử lý chỉ 15% trở nên cấp bách.
Ngân hàng Thế giới cảnh báo nếu không quản lý hiệu quả, Việt Nam có thể mất 6% GDP mỗi năm đến 2035, trong đó riêng ô nhiễm nước khiến GDP giảm 3,5%.
Một trong những giải pháp trọng tâm là ứng dụng mô hình hạ tầng xanh – xanh (Blue‑Green Infrastructure), kết hợp đất ngập nước, không gian xanh đô thị với công nghệ xử lý hiện đại để giảm ngập lụt, cải thiện chất lượng và tái tạo nguồn nước. Bên cạnh việc thực thi Luật Tài nguyên nước, cần đẩy mạnh dự án hạ tầng cấp – thoát nước, đặc biệt ở vùng nông thôn, thực hiện chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng về sử dụng nước bền vững.
Phục hồi rừng và quản lý đất đai
Hoạt động phá rừng vì phát triển nông nghiệp và cơ sở hạ tầng làm giảm khả năng giữ nước, gia tăng xói mòn và lũ lụt. Phục hồi rừng bền vững và nông lâm kết hợp không chỉ cải thiện khả năng điều hoà dòng chảy mà còn giúp tăng đa dạng sinh học, giảm thiểu biến đổi khí hậu. Các chương trình trồng rừng quy mô lớn, ưu đãi cho nông lâm kết hợp và thắt chặt kiểm soát sử dụng đất cần được triển khai đồng bộ với chính quyền địa phương, đảm bảo tuân thủ và giám sát chặt chẽ.
Thực tế, khoảng cách về kiến thức giữa nông dân, ngư dân và các nhà quản lý trong bảo tồn nước, bảo vệ môi trường vẫn còn lớn. Khu vực thu gom rác thải phi chính thức đóng vai trò quan trọng nhưng chưa được chính thức hoá, dẫn đến thiếu quản lý, truy xuất nguồn gốc chất thải và điều kiện lao động kém. Triển khai chương trình giáo dục về nguyên tắc 5 R (từ chối, tái sử dụng, giảm thiểu, tái chế, sửa chữa/tân trang/phục hồi) ngay từ chương trình giáo dục quốc dân, đồng thời tổ chức chiến dịch truyền thông liên tục sẽ hình thành thói quen bền vững cho người dân.
Trước thực trạng trên, Tiểu ban Tăng trưởng xanh đã đưa ra khuyến nghị tổng thể, trước hết cần tăng cường đầu tư cho hệ thống phân loại, thu gom và tái chế chất thải thông qua ngân sách địa phương, Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam và các hoạt động xã hội hóa, cũng như thúc đẩy quan hệ đối tác công – tư; đồng thời ban hành các chính sách ưu đãi về thuế, phí và hỗ trợ chi phí, phân biệt mức hỗ trợ theo tỷ lệ vật liệu tái chế nhằm khuyến khích doanh nghiệp tái chế phát triển bền vững.
Cùng với đó, hoàn thiện khung pháp lý về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và cơ chế phí tái chế để thúc đẩy sử dụng vật liệu tái chế và bao bì có thể tái sử dụng nhiều lần; sớm công bố hạn ngạch phát thải khí nhà kính để doanh nghiệp kịp xây dựng kế hoạch, đồng thời cung cấp hướng dẫn chi tiết về quy trình tham gia thị trường tín chỉ carbon.
Về tài nguyên nước, cần thực thi nghiêm Luật tài nguyên nước, đẩy mạnh phát triển hạ tầng xanh – xanh, nâng cao tỷ lệ thu gom và xử lý nước thải, đặc biệt tại khu vực nông thôn; về rừng và đất đai, triển khai chương trình trồng rừng quy mô lớn kết hợp nông lâm, đồng thời tăng cường giám sát, kiểm soát sử dụng đất.
Cuối cùng, chính thức hóa vai trò của khu vực thu gom phi chính thức, lồng ghép cộng đồng vào quá trình hoạch định chính sách và tăng cường giáo dục, truyền thông môi trường liên tục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm chung của toàn xã hội. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng, Việt Nam có thể thiết lập hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn, đồng thời bảo vệ tài nguyên và môi trường – nền tảng cho phát triển bền vững lâu dài.
Duy Trinh