Động lực kép thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững

(VietQ.vn) - Không thể có “xanh” nếu thiếu “số” là thực tế mà các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đối mặt khi bước vào cuộc chuyển đổi mô hình tăng trưởng hướng đến phát thải ròng bằng 0.
An Giang hiện thực hóa Nghị quyết 57: Động lực mới cho khoa học, công nghệ và chuyển đổi số
Quảng Ninh lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực phát triển toàn diện
Trí tuệ nhân tạo - động lực mới thúc đẩy chuỗi cung ứng và xuất khẩu xuyên biên giới
Chuyển đổi xanh - động lực phát triển bền vững khu vực Bắc Trung Bộ
Xanh phải đi cùng với số
Theo PGS. TS Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam ban đầu cam kết giảm 8% phát thải vào năm 2030 và nâng lên 24% nếu có hỗ trợ quốc tế. Đến năm 2020, mức cam kết tăng lên 9% và 27%.
Sau Hội nghị COP26 năm 2021, Việt Nam đặt mục tiêu tham vọng hơn: đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để thực hiện cam kết này, năm 2022, Đóng góp do quốc gia tự xác định (NDC) đã được điều chỉnh thành 15,8% khi sử dụng nguồn lực trong nước và 43,5% nếu có hỗ trợ quốc tế.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định rõ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện thể chế và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghị quyết đồng thời nhấn mạnh việc phát triển hạ tầng công nghệ, hạ tầng số hiện đại trên nguyên tắc “hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí”. Trong đó, dữ liệu được coi là tư liệu sản xuất mới, cần khai thác mạnh mẽ để hình thành các ngành công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu, mở đường cho nền kinh tế số song hành cùng kinh tế xanh.
Ảnh minh họa
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao, kinh tế số chiếm tối thiểu 50% GDP, nằm trong nhóm 30 quốc gia hàng đầu về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới. Những định hướng này chính là nền tảng chính sách then chốt để Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh - số và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
PGS. TS Nguyễn Đình Thọ nhấn mạnh, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số là hai tiến trình không thể tách rời. Các yêu cầu kỹ thuật, giám sát, báo cáo trong chuyển đổi xanh đòi hỏi nền tảng dữ liệu minh bạch, số hóa, liên thông và có thể truy xuất theo chuẩn quốc tế. Trong nông nghiệp, nếu muốn xuất khẩu nông sản vào các thị trường cao cấp như Liên minh châu Âu (EU), sản phẩm buộc phải chứng minh không có nguồn gốc từ phá rừng theo quy định EUDR. Toàn bộ quá trình canh tác, thu hoạch, vận chuyển phải được mã hóa, lưu trữ qua công nghệ blockchain, hệ thống đám mây và truy xuất số hóa. Không có nền tảng số, việc truy xuất nguồn gốc sẽ là bất khả thi - đồng nghĩa với việc mất chỗ đứng trên thị trường toàn cầu.
Tương tự, trong năng lượng, công nghiệp, sử dụng đất, lâm nghiệp hay xử lý chất thải, việc kiểm kê và báo cáo phát thải khí nhà kính theo chuẩn quốc tế là bắt buộc. Những báo cáo này không thể thực hiện thủ công, mà cần đến nhật ký phát thải số hóa. Đây cũng là nền tảng để xây dựng tín chỉ carbon, từ đó huy động tài chính khí hậu cho doanh nghiệp và quốc gia.
Doanh nghiệp Việt trên hành trình chuyển đổi kép
Thực tế, tăng trưởng xanh là quá trình tái cấu trúc hoạt động kinh tế theo hướng hài hòa giữa hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội. Để làm được điều này, doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện đồng thời hai cuộc chuyển đổi: chuyển đổi xanh và chuyển đổi số. Đây là xu thế “chuyển đổi kép” (twin transition) đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều quốc gia phát triển và là điều kiện để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp tiên phong như Tập đoàn FPT, TH, Phong Phú (PPJ Group)... đã triển khai tích hợp xanh - số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo đó, FPT phát triển phần mềm kiểm kê phát thải khí nhà kính (GHG Inventory) và nền tảng báo cáo ESG "make in Vietnam", giúp doanh nghiệp giảm chi phí đáng kể so với các phần mềm quốc tế. Ngoài yếu tố chi phí, sản phẩm nội còn phù hợp hơn về ngôn ngữ, văn hóa và khả năng tùy biến.
Ông Đặng Vũ Hùng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc PPJ Group cho biết, việc kết hợp chuyển đổi số và xanh giúp doanh nghiệp tiết kiệm năng lượng, tái chế nước, tăng sử dụng nguyên liệu và hóa chất xanh, đáp ứng tiêu chí phát triển bền vững mà khách hàng quốc tế đặt ra. Tuy nhiên, ông Hùng thừa nhận, lộ trình này rất nghiêm ngặt, gây áp lực lớn về tài chính, công nghệ và nhân lực, nhất là với doanh nghiệp dệt may xuất khẩu.
Tập đoàn TH cũng là một ví dụ điển hình về việc tích hợp chuyển đổi xanh - số từ giai đoạn đầu. Theo ông Ngô Minh Hải - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn, ngay khi thành lập, TH đã xác định áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh gắn liền với số hóa toàn diện, đảm bảo kết nối chặt chẽ giữa các công đoạn trong chuỗi sản xuất - phân phối.
Tuy vậy, hành trình chuyển đổi kép cũng đi kèm hàng loạt thách thức. Ông Poovathungal Itteera Roy - Phó Chủ tịch Ban Năng lượng, Schneider Electric khu vực Việt Nam - Campuchia chỉ ra rằng có tới 55% doanh nghiệp lo ngại chuyển đổi xanh không mang lại lợi nhuận rõ ràng. Thêm vào đó, sự thiếu ổn định trong chính sách, chi phí đầu tư cao, rào cản về công nghệ và dữ liệu hiện trường khiến doanh nghiệp khó đánh giá rủi ro, hiệu quả và tiếp cận tài chính xanh.
Về phía TS. Nguyễn Xuân Thơ - Cố vấn cấp cao DigiwinSoft cho biết, để hiện thực hóa chuyển đổi kép, doanh nghiệp cần chuẩn hóa quy trình bằng hệ thống ERP, ứng dụng IoT để thu thập dữ liệu sản xuất theo thời gian thực, từ đó tối ưu chi phí, tăng hiệu quả quản trị và xây dựng hệ thống kiểm kê phát thải đạt chuẩn ISO 14064, 14067, 50001.
Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ tại COP26, ký kết Tuyên bố chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) và phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Chính phủ cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm tạo lập môi trường chính sách thuận lợi hơn cho doanh nghiệp như mở rộng danh mục đầu tư xanh, hỗ trợ tiếp cận tài chính khí hậu và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Năm 2024 được Chính phủ xác định là năm tăng tốc, bứt phá trong triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Việc hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đến 2050 sẽ phụ thuộc không nhỏ vào khả năng phối hợp chặt chẽ giữa chính sách nhà nước và hành động thực tiễn từ cộng đồng doanh nghiệp.
Duy Trinh