Hàng Việt trước cơ hội số: Thời cơ, thách thức và chiến lược vươn xa
(VietQ.vn) - Trong bối cảnh thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, sự trỗi dậy của hàng giả, hàng nhái cùng sức ép cạnh tranh từ thương hiệu ngoại đang đặt doanh nghiệp Việt vào tình thế phải thay đổi. Để khẳng định vị thế và mở rộng ra thị trường quốc tế, thương hiệu Việt cần một chiến lược đồng bộ: từ xây dựng hình ảnh trên không gian số, tận dụng “cánh tay nối dài” là các đơn vị hỗ trợ, cho tới bảo vệ sở hữu trí tuệ và khai thác thương mại điện tử xuyên biên giới.
Văn Phú đồng hành cùng phường Nam Sầm Sơn tổ chức giải chạy Vlasta Race - Nam Sầm Sơn 2025
Bắt khẩn cấp chủ Nha khoa Tuyết Chinh: Hành hung khách, đập tài sản ngay tại phòng khám
Công nghiệp hỗ trợ: Động lực mới cho nền kinh tế quốc dân
Sự phát triển của kinh tế số mở ra cơ hội chưa từng có cho doanh nghiệp Việt. Tuy nhiên, hiện diện trên nền tảng số chưa đủ, điều quan trọng là phải tạo ra dấu ấn khác biệt. Một thương hiệu muốn đứng vững ngoài đảm bảo chất lượng sản phẩm phải chú trọng quản trị chuỗi cung ứng, đầu tư công nghệ như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu, cùng với việc sản xuất nội dung hấp dẫn và mang lại trải nghiệm khách hàng tốt.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp khó khi tiếp cận công cụ số do hạn chế về chi phí, nhân lực và chiến lược. Trong khi đó, các thương hiệu quốc tế có nguồn lực mạnh đang tận dụng ưu thế này để chiếm lĩnh thị phần. Nếu không nhanh chóng chuyển đổi, thương hiệu Việt sẽ đối mặt nguy cơ bị lép vế ngay trên sân nhà.

Việt Nam có nhiều cơ hội xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới.
Một trong những thách thức lớn nhất với thương hiệu Việt hiện nay là hàng giả, hàng nhái. Nhiều doanh nghiệp lớn từng lao đao vì sản phẩm bị làm nhái khiến người tiêu dùng nhầm lẫn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín. Việc chậm trễ trong đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, cả trong và ngoài nước đã để lại những lỗ hổng khiến thương hiệu dễ bị xâm phạm.
Ông Phạm Trường Giang, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần EUROHOUSE Việt Nam nêu thực tế về tình trạng xâm phạm kiểu dáng, nhãn hiệu, sáng chế trong ngành nhôm, cơ khí, vật liệu xây dựng vẫn diễn ra phổ biến.
"Với vai trò là cơ quan chuyên môn, Cục SHTT sẽ luôn đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp trong bảo vệ lợi ích hợp pháp và phối hợp với các chuyên gia pháp lý để đề xuất chính sách phù hợp", ông nhấn mạnh.
Theo ông Giang, việc xử lý vi phạm còn phụ thuộc quá nhiều vào chứng cứ bắt quả tang hàng hóa vi phạm. Trong nhiều trường hợp, dù đã có kết luận giám định khẳng định hành vi xâm phạm nhưng cơ quan chức năng vẫn yêu cầu phải “bắt giữ trực tiếp hàng hóa đang lưu thông trên thị trường” mới đủ căn cứ xử lý. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vi phạm lách luật bằng cách thay đổi địa điểm sản xuất, phân phối nhỏ lẻ để tránh bị bắt quả tang.
"Doanh nghiệp bị xâm phạm dù có đủ chứng cứ giám định khoa học vẫn gặp khó trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng", ông Giang chia sẻ.
Thứ hai, chế tài xử phạt hành chính còn chưa đủ sức răn đe. Ông Giang cho rằng, mức phạt theo quy định tại Nghị định 65/2023/NĐ-CP tuy đã tăng cường nhưng so với lợi nhuận từ việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm thì vẫn còn quá thấp. Nhiều doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt rồi tiếp tục tái phạm.
Thứ ba, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi còn chồng chéo, thiếu tính chủ động. Cụ thể, các cơ quan như Quản lý thị trường, Thanh tra, Công an kinh tế… đều có thẩm quyền xử lý, nhưng trên thực tế, việc phối hợp còn phân tán, kéo dài thời gian, làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền SHTT.
"Kinh nghiệm từ các nước như EU, Mỹ, Trung Quốc cho thấy cơ quan chức năng hoàn toàn có thể ra lệnh dừng sản xuất, niêm phong, thu giữ chỉ dựa trên kết luận giám định thay vì chờ bắt quả tang tại hiện trường. Đây là điểm mà Việt Nam cần học hỏi và áp dụng để nâng cao hiệu quả thực thi", ông Giang nói.
Cũng ở góc độ doanh nghiệp, ông Bông Hoa Việt – đại diện Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh khẳng định thương hiệu là tài sản vô hình nhưng lại quyết định sức sống của doanh nghiệp. Thực trạng xâm phạm nhãn hiệu đang ngày càng tinh vi, gây thiệt hại trực tiếp đến uy tín, thị phần và niềm tin của khách hàng.
“Câu chuyện thương hiệu bị đánh cắp không chỉ là nỗi đau doanh nghiệp mà còn là lỗ hổng thể chế. Nếu thể chế mạnh, thực thi quyết liệt thì thương hiệu Việt sẽ không còn phải “giải trình danh dự” để chứng minh mình là chính chủ. Do đó, cần hoàn thiện cơ chế, bảo vệ quyền sáng tạo và xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Chỉ khi đó, thương hiệu Việt mới đủ sức vươn ra thế giới, tự tin cạnh tranh và góp phần khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế toàn cầu”, ông Bông Hoa Việt đưa ra quan điểm.

Luật sư Lưu Tiến Dũng chia sẻ: "Không ít doanh nghiệp coi “bị phạt hành chính” như một chi phí kinh doanh, sẵn sàng tái phạm khi lợi ích thu được vượt xa mức xử phạt".
Cũng theo nhận định của chuyên gia, trong bối cảnh kinh doanh số phát triển, sự xuất hiện của các đơn vị hỗ trợ hay còn gọi là enabler, trở thành “cánh tay nối dài” giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản. Những đối tác này đảm nhận vai trò toàn diện từ quản lý gian hàng trực tuyến, tối ưu quảng cáo, sản xuất nội dung đến chăm sóc khách hàng, đặc biệt hữu ích cho doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế về nguồn lực.
Con đường để thương hiệu Việt khẳng định chỗ đứng trong kỷ nguyên số không hề bằng phẳng. Cơ hội lớn song song với rủi ro cũng không nhỏ. Để vươn xa, cần một chiến lược đồng bộ từ cấp quốc gia đến từng doanh nghiệp: hoàn thiện chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, mạnh tay xử lý hàng giả, hỗ trợ hạ tầng số cho doanh nghiệp nhỏ, đồng thời khuyến khích hợp tác với các enabler để tối ưu nguồn lực.
Về phía doanh nghiệp, đầu tư vào thương hiệu, marketing số và trải nghiệm khách hàng là yếu tố sống còn. Bên cạnh đó, việc mở rộng thương mại điện tử xuyên biên giới sẽ là chìa khóa giúp hàng Việt không chỉ đứng vững trong nước mà còn tạo dựng vị thế tại thị trường quốc tế.
Luật sư Lưu Tiến Dũng, Hãng luật La Défense nêu quan điểm, trong nền kinh tế tri thức, giá trị vô hình đã trở thành thước đo thực sự của năng lực cạnh tranh quốc gia. Các thương vụ, mua bán – sáp nhập (M&A) quốc tế cho thấy phần lớn giá trị doanh nghiệp không nằm ở dây chuyền sản xuất hay nhà xưởng mà ở thương hiệu, công nghệ lõi, mạng lưới phân phối và độ phủ thị trường.
Theo LS Dũng, khi giá trị thương hiệu, công nghệ lõi hay hình ảnh doanh nghiệp đã trở thành quyền tài sản thực thụ thì nhu cầu bảo vệ các quyền này càng trở nên cấp bách. Bảo hộ không chỉ dừng ở thủ tục đăng ký, mà phải được bảo đảm bởi cơ chế tư pháp – nơi mọi hành vi xâm phạm có thể bị ngăn chặn, xử lý, bồi thường và răn đe. Nếu cơ chế tư pháp chậm trễ, không hiệu quả, thì chỉ một vụ xâm phạm nhãn hiệu hoặc chiếm đoạt thương hiệu cũng có thể làm mất đi nhiều năm đầu tư sáng tạo, thậm chí triệt tiêu cả một doanh nghiệp.
"Thực tiễn cho thấy, doanh nghiệp thường chọn con đường xử phạt hành chính vì thủ tục nhanh gọn, không cần tranh tụng phức tạp và có thể chấm dứt ngay hành vi xâm phạm. Song, các chế tài hành chính chủ yếu dừng lại ở mức phạt tiền và tịch thu, tiêu hủy tang vật, vốn chỉ giải quyết phần ngọn của vấn đề.
Trong nhiều trường hợp, khoản phạt thấp hơn nhiều so với lợi nhuận bất chính mà bên vi phạm thu được, nên không đủ sức răn đe. Chính vì vậy, không ít doanh nghiệp coi “bị phạt hành chính” như một chi phí kinh doanh, sẵn sàng tái phạm khi lợi ích thu được vượt xa mức xử phạt", ông nói thêm.
Thanh Hiền









