Năng suất lao động quyết định tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế
(VietQ.vn) - Đã đến lúc Việt Nam phải tạo ra bước đột phá thực sự trong nâng cao năng suất - yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh và tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế.
Hành trình chinh phục năng suất của doanh nghiệp Việt Nam
Doanh nghiệp Hải Phòng đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng để hội nhập bền vững
Năng suất lao động quyết định tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế. (Ảnh minh họa)
Động lực then chốt quyết định tốc độ tăng trưởng
Năng suất phản ánh hiệu quả của nền kinh tế, thể hiện mức độ sử dụng các nguồn lực lao động, vốn, công nghệ,... để tạo ra của cải vật chất và giá trị gia tăng. Quốc gia có năng suất cao đồng nghĩa với việc cùng một lượng nguồn lực nhưng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ chất lượng hơn và có sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số đang diễn ra sâu rộng, năng suất không chỉ là yếu tố kỹ thuật nội tại của doanh nghiệp mà còn là động lực then chốt quyết định tốc độ tăng trưởng, khả năng thích ứng và vị thế của cả nền kinh tế.
Sau nhiều năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân giai đoạn 2021 - 2025 ước khoảng 6,2%/năm, thuộc nhóm các nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới; quy mô GDP năm 2025 dự kiến trên 510 tỷ USD, gấp 1,48 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD; thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt khoảng 4.750 USD, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Tuy nhiên các chuyên gia đánh giá, đã đến lúc Việt Nam phải tạo ra bước đột phá thực sự trong nâng cao năng suất – yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh và tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế. Có 5 lý do cấp bách cho yêu cầu này.
Thứ nhất, năng suất lao động của Việt Nam hiện vẫn ở mức thấp so với bình quân khu vực và thế giới, chủ yếu do phần lớn lao động tập trung trong các ngành có năng suất thấp.
Thứ hai, dù tốc độ tăng năng suất trong hơn 30 năm qua được đánh giá là khá nhanh, song vẫn còn khoảng cách xa so với tiềm năng và các nền kinh tế phát triển vượt trội.
Thứ ba, lợi thế dân số vàng của Việt Nam đang dần khép lại, chỉ trong ba thập kỷ tới, nước ta sẽ bước vào nhóm quốc gia có dân số già – kéo theo áp lực lớn lên năng suất lao động.
Thứ tư, hiệu quả khai thác nguồn lực, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo vẫn còn hạn chế, khiến năng suất chưa thể bứt phá.
Cuối cùng, mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 là thách thức lớn, chỉ có thể đạt được nếu Việt Nam tạo được bước tiến vượt bậc về năng suất trong giai đoạn tới.
Giải pháp nâng cao năng suất
Cần giải pháp đột phá và quyết liệt nhằm nâng cao năng suất. (Ảnh minh họa)
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8,3 - 8,5% trong năm 2025 và hướng tới mức hai con số trong những năm tiếp theo, nâng cao năng suất lao động trở thành yêu cầu mang tính quyết định. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới đang chịu nhiều tác động phức tạp từ xung đột địa chính trị, tranh chấp thương mại, thay đổi chính sách thuế quan và cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ.
Về phương diện cơ chế chính sách, Nhà nước cần tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật, nâng cao chất lượng công tác hoạch định, thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển. Đồng thời, đẩy mạnh cải thiện hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng để khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế số.
Việc tăng cường tính minh bạch trong quản lý hành chính, cải cách chính sách tiền lương và đổi mới phương thức đánh giá cán bộ sẽ góp phần giảm thiểu tham nhũng, nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy công quyền, qua đó giảm bớt chi phí phi chính thức cho doanh nghiệp.
Song song đó, cần triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đồng thời tháo gỡ rào cản về tài chính, đặc biệt là tạo điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng theo Nghị quyết 68.
Bên cạnh chính sách, đầu tư cho giáo dục và đào tạo gắn với chăm sóc sức khỏe người dân cũng là yếu tố trọng yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là lực lượng lao động có trình độ cao. Cần đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động, chú trọng phát triển các ngành khoa học – kỹ thuật – công nghệ, đồng thời mở rộng chương trình đào tạo mới trong lĩnh vực chuyển đổi số như trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT) hay công nghệ chuỗi khối (Blockchain).
Về phía doanh nghiệp, cần xác định rõ mô hình sản xuất phù hợp, gắn với việc nâng cao hiệu quả quản trị thông qua ứng dụng công nghệ hiện đại, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI). Việc lựa chọn quy mô đầu tư, định hướng phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, tích hợp công nghệ tiên tiến sẽ giúp doanh nghiệp củng cố năng lực cạnh tranh. Song song đó, doanh nghiệp cần đổi mới tư duy quản trị, áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến được quốc tế công nhận, hướng tới nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất – kinh doanh.
Đối với người lao động, mỗi cá nhân cần chủ động rèn luyện ý thức nghề nghiệp, tuân thủ nghiêm kỷ luật lao động và xây dựng tác phong công nghiệp chuyên nghiệp. Thái độ làm việc nghiêm túc, tinh thần trách nhiệm và sự gắn bó lâu dài với doanh nghiệp không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của tổ chức.
Người lao động cũng cần không ngừng học hỏi, cập nhật tri thức mới, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc trong môi trường hội nhập và khả năng thích ứng linh hoạt với những thay đổi trong cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế.
Thanh Tùng









