Ngoại giao công nghệ - trụ cột chiến lược bảo đảm an ninh công nghệ trong kỷ nguyên số
(VietQ.vn) - Hiện nay, ngoại giao công nghệ được xem là trụ cột chiến lược bảo đảm an ninh công nghệ, thu hút nguồn lực chất lượng cao, mở đường cho chuyển giao công nghệ có trách nhiệm và bảo vệ lợi ích quốc gia trong môi trường toàn cầu hóa công nghệ.
‘Make in Viet Nam’ - khát vọng làm chủ công nghệ số và sáng tạo tương lai
Hiện thực hóa khát vọng tự chủ công nghệ
Ngoại giao công nghệ được xem là trụ cột chiến lược bảo đảm an ninh công nghệ quốc gia. (Ảnh minh họa)
Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh một trong các giải pháp về hội nhập và hợp tác quốc tế là “Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, mở rộng không gian phát triển bền vững và hiện đại”.
Xu hướng này được các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia coi là phần không thể tách rời của chính sách đối ngoại và phát triển khoa học và công nghệ. Theo đó, vai trò của ngoại giao công nghệ sẽ giúp Việt Nam hoạch định chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia như sau:
Thứ nhất, ngoại giao công nghệ giúp chủ động xác định, thương lượng và bảo đảm nguồn cung công nghệ chiến lược (ví dụ: bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, vật liệu mới…), giảm rủi ro bị phụ thuộc đơn phương, giúp Việt Nam đảm bảo tiếp cận công nghệ lõi và chuỗi cung ứng chiến lược;
Thứ hai, thu hút đầu tư chiến lược từ các Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) của các tập đoàn đa quốc gia; Nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm chuyên gia quốc tế và nhà trí thức, khoa học Việt Nam tại nước ngoài và các mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu là yếu tố then chốt để chuyển hóa năng lực nội tại, huy động nguồn lực bên ngoài để tiếp cận, nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển, hướng đến làm chủ công nghệ;
Thứ ba, chủ động tham gia đàm phán tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn đạo đức AI, thương mại số... dần giúp Việt Nam tiếp cận và đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn và luật pháp quốc tế. Điều này đóng vai trò quan trọng để tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước, đồng thời bảo vệ lợi ích kinh tế và an ninh;
Thứ tư, kết nối Viện/Trường/Doanh nghiệp với đối tác nước ngoài để triển khai các dự án hợp tác nghiên cứu chung (song phương/đa phương) giải quyết các nhu cầu bức thiết trong khi nguồn lực và trình độ khoa học và công nghệ trong nước chưa thể đáp ứng và thúc đẩy hoạt động tìm kiếm, chuyển giao công nghệ có giá trị thương mại;
Thứ năm, gia tăng sức mạnh mềm và nâng tầm vị thế quốc gia, Việt Nam có thể thúc đẩy, hỗ trợ các sản phẩm công nghệ mang thương hiệu quốc gia (made in Việt Nam) cho công nghệ chủ lực, kết hợp ngoại giao công nghệ và ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường, tham gia sâu hơn vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng công nghệ khu vực và toàn cầu.
Như vậy, ngoại giao công nghệ không còn là hoạt động “phụ trợ” mà phải là trụ cột chiến lược của chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nếu triển khai bài bản, với cơ cấu điều phối liên ngành, đội ngũ ngoại giao khoa học có năng lực và công cụ pháp lý - kinh tế phù hợp, Việt Nam sẽ biến ngoại giao công nghệ thành kênh thu hút công nghệ lõi, nhân lực chất lượng cao và nâng tầm chuỗi giá trị quốc gia.
Mai Phương









