Nhận định diễn biến chiến tranh thương mại tác động đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam: Một số khuyến nghị, giải pháp

author 16:36 30/07/2025

(VietQ.vn) - Chiến tranh thương mại giữa các nước lớn có thể dẫn đến nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, thu hẹp thị trường xuất khẩu và đẩy giá nguyên liệu sản xuất lên cao.

Bối cảnh chiến tranh thương mại giữa các nước lớn như Mỹ và Trung Quốc có khả năng bùng nổ thành một cuộc chiến tranh thương mại toàn diện, trong đó Mỹ liên tục đưa ra các chính sách bảo hộ thương mại quyết liệt, với hàng loạt biện pháp thuế quan mới. Nhiều mặt hàng, từ công nghệ, xe điện đến hàng tiêu dùng đều bị áp thuế bổ sung, khiến quan hệ thương mại Mỹ - Trung khá căng thẳng.

Tại Canada và Mexico, các sản phẩm nhôm, thép bị đánh thuế cao hơn, làm dấy lên tranh chấp trong khu vực Bắc Mỹ. Ngoài ra, nếu Mỹ kích hoạt chính sách áp thuế với EU, ô tô, hàng không, thực phẩm chế biến từ châu Âu đều bị siết chặt bởi các biện pháp thuế quan mới.

Hệ quả là làn sóng trả đũa có nguy cơ xuất hiện, đặt thế giới trước ngưỡng cửa cuộc chiến tranh thương mại toàn diện, dẫn đến nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, thu hẹp thị trường xuất khẩu và đẩy giá nguyên liệu sản xuất lên cao. Việt Nam - với độ mở thương mại lớn, lại là nước xuất siêu sang thị trường Mỹ liên tục trong những năm qua - chắc chắn sẽ chịu tác động không nhỏ từ cuộc chiến thuế quan này.

1. Đánh giá khái quát về tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025

1.1. Những kết quả đạt được

- Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa không ngừng được mở rộng và tăng cao, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng từ 545.238 triệu USD năm 2020 tăng lên 786.296 triệu USD năm 2024, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân đạt 9,6%/năm giai đoạn 2021 - 2024.

Cùng với sự cải thiện trong hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục được đẩy mạnh trong tháng 5/2025 với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 78,64 tỷ USD, tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 355,79 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,0%; nhập khẩu tăng 17,5%59. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 4,67 tỷ USD.

Riêng đối với xuất khẩu hàng hóa,kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 5/2025 đạt 39,6 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng trước; trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,61 tỷ USD, giảm 26,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 30,99 tỷ USD, tăng 20,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 5 tăng 17,0%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 10,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 27,7%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 180,23 tỷ USD, tăng 14,0% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 49,62 tỷ USD, tăng 12,5%, chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 130,61 tỷ USD, tăng 14,5%, chiếm 72,5%.

Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2025 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ấn tượng ở cả nhóm hàng nông, thủy sản và công nghiệp chế biến, ước đạt mức hai con số so với cùng kỳ năm trước; trong đó: (i) Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản đạt gần 17,7 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, nhiều mặt hàng trong nhóm này ghi nhận mức tăng trưởng khả quan mặc dù giảm về sản lượng xuất khẩu nhưng vẫn đạt kim ngạch cao nhờ giá xuất khẩu tăng mạnh như: cà phê (lượng xuất khẩu giảm 0,6% nhưng kim ngạch xuất khẩu ước tăng tới 62,3%); hạt tiêu (lượng xuất khẩu giảm 22,5% nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 40,5%); cao su (giảm 4% về lượng và tăng 21,7% về kim ngạch); nhân điều (giảm 5% về lượng nhưng tăng 19,4% về kim ngạch); (ii) Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt gần 153 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước và tiếp tục là động lực tăng trưởng của xuất khẩu cả nước.

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, giầy dép, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác… đều đạt tốc độ tăng trưởng cao ở mức hai con số; trong đó, xuất khẩu dệt may đạt 15,06 tỷ USD, tăng 12%; giầy dép các loại đạt 9,75 tỷ USD, tăng 11,5%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 38,4 tỷ USD, tăng 39,7%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác ước đạt 22 tỷ USD, tăng 16,4%; gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 6,8 tỷ USD, tăng 8,6%.

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu của nước ta tới hầu hết thị trường xuất khẩu chủ lực đều tăng; trong đó, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, với kim ngạch đạt 57,2 tỷ USD, chiếm gần 31,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 27,4% so với cùng kỳ năm trước; EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai với kim ngạch đạt 23 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với kim ngạch ước đạt 23,5 tỷ USD, tăng 3,2%; Xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc đạt 11,37 tỷ USD, tăng 10,6%; Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 10,56 tỷ USD, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.

Bảng 1. Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2021-2025

Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Xuất nhập khẩu

Cán cân thương mại (triệu USD)

 

Kim ngạch (triệu USD)

Tăng trưởng (%)

Kim ngạch (triệu USD)

Tăng trưởng (%)

Kim ngạch (triệu USD)

Tăng trưởng (%)

 

2020

282.629

6,9

262.609

3,7

545.238

5,4

20.020

2021

336.167

18,9

332.843

26,7

669.010

22,7

3.324

2022

371.715

10,6

359.575

8

731.290

9,3

12.140

2023

354.721

-4,6

326.358

-9,2

681.079

-6,9

28.363

2024

405.532

14,3

380.764

16,7

786.296

15,4

24.768

5T/2025

180.230

14,0

175.560

17,5

355.790

15,7

4.670

2021-2024 (%)

1.468.135

9,4

1.399.540

9,7

2.867.675

9,6

5,5

Nguồn: Số liệu từ Thống kê Hải quan thường niên, Cục Hải quan

- Cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp, từ năm 2016 đến 2024 và tiếp tục duy trì đà tăng trong 5 tháng đầu năm 2025, góp phần tích cực cải thiện cán cân thanh toán, nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.

- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Năm 2024, nhóm hàng công nghiệp chế biến phục hồi mạnh, là động lực đóng góp chính vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước (chiếm gần 85%). Trong đó, nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt gần 73 tỷ USD, tăng 26,6%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 53,9 tỷ USD, tăng 2,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 52 tỷ USD, tăng 21%; hàng dệt may đạt 37 tỷ USD, tăng 11,2%; giày dép các loại đạt 22,9 tỷ USD, tăng 13%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,3 tỷ USD, tăng 20,9%; sắt thép đạt 9,08 tỷ USD, tăng 8,8%... Nhóm hàng cần nhập khẩu tiếp tục chiếm tỷ trọng cao (gần 89%).

- Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của nước ta tới hầu hết thị trường xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba, tiếp đến là Hàn Quốc và Nhật Bản.

- Năng lực sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước ngày càng được cải thiện, cụ thể, năm 2024, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước (19,8%) cao hơn so với khu vực FDI (12,3%); đồng thời, tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước cao hơn so với năm 2023 (28,2% so với 26,9%).

- Hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai đồng bộ, hiệu quả.Việt Nam đã cơ bản tận dụng, khai thác có hiệu quả các cam kết mở cửa thị trường từ các FTA, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam với hầu hết các thị trường đã ký FTA đều tăng.

1.2. Những hạn chế và nguyên nhân

- Xuất nhập khẩu vẫn phụ thuộc quá lớn vào doanh nghiệp FDI, đặc biệt là nếu xét đến các gián đoạn trong thương mại quốc tế cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu do tác động của đại dịch, xung đột Nga - Ukraine, những thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc… Đặc biệt, DN FDI chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao trong hầu hết các nhóm hàng xuất, nhập khẩu chủ lực của Việt Nam như: máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng…

- Chuyển dịch cơ cấu thị trường và mặt hàng XNK còn chậm, thiếu đột phá. Phần lớn thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn thuộc về khu vực châu Á, trong khi số lượng thị trường lớn không thay đổi và giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp.

- Việc khai thác lợi thế từ hội nhập của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế,nguyên nhân là do những hạn chế về nguồn lực, trình độ, năng lực thực thi cam kết trong các FTA, đặc biệt là các FTA đa phương thế hệ mới (CPTPP) của các DNNVV Việt Nam, cũng như chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng để tận dụng cơ hội từ hội nhập.

- Đối với nhóm hàng nông sản, quy trình sản xuất chưa đảm bảo từ nguồn nguyên liệu xanh, sạch đến quá trình sản xuất, chế biến đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, môi trường, hệ thống truy xuất nguồn gốc, quản lý khai thác chưa được thực hiện bài bản, dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu chưa cao. Nhiều sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam đứng trước rủi ro không được chấp nhận do không đáp ứng các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm và môi trường ngày càng nghiêm ngặt của các thị trường nhập khẩu. Đối với xuất khẩu thủy sản, mặc dù là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ngành thủy sản phải đối mặt với những thách thức như dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản, chi phí sản xuất tăng cao và sự gia tăng các rào cản thương mại từ các nước nhập khẩu.

Đặc biệt từ năm 2025, nông sản Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi xuất khẩu vào Liên minh châu Âu (EU) vì các quy định mới về tăng cường các biện pháp giám sát an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật (SPS) và giảm mức dư lượng tối đa (MRL) đối với một số hoạt chất trong thực phẩm nhập khẩu. Trong danh mục các sản phẩm chịu ảnh hưởng có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU như cà phê, chè, hồ tiêu, gạo, sầu riêng, chuối, xoài và các loại rau như hành, tỏi, ớt.

- Đối với nhóm hàng công nghiệp, mặc dù Việt Nam đã có sự gia tăng xuất khẩu ở các lĩnh vực có giá trị gia tăng như điện tử và cơ khí chế tạo, nhưng xuất khẩu vẫn tập trung chủ yếu vào một số mặt hàng chủ lực như điện thoại, dệt may, da giầy, chưa đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và phụ thuộc nhiều vào nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Điều này làm gia tăng rủi ro khi có biến động về giá cả hoặc nhu cầu giảm từ các thị trường chủ yếu.

Trong thời gian tới, các doanh nghiệp trong các ngành hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực như điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ, công nghiệp hỗ trợ… sẽ gặp một số thách thức về việc phải tuân thủ các quy định nhập khẩu chặt chẽ và liên tục thay đổi đối với hàng nhập khẩu tại các thị trường lớn, đó là: Các điều kiện kiểm soát trực tiếp và phải được cấp giấy chứng nhận mới có thể được nhập khẩu vào thị trường Ấn Độ; nguy cơ bị áp thuế chống bán phá giá ở một số thị trường có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đột biến như Mexico; yêu cầu về truy xuất nguồn gốc đối với nguyên, phụ liệu ngày càng chặt chẽ ở nhiều thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ; yêu cầu về vật liệu đầu vào phải được tái chế đối với ngành công nghiệp hỗ trợ; những quy định mới liên quan đến đánh thuế đối với phát thải carbon và chuyển đổi xanh của EU; các đạo luật về chống phá rừng, đạo luật liên quan đến truy xuất, thẩm định chuỗi cung ứng, hay sắp tới là một loạt đạo luật liên quan tới sinh thái hay hộ chiếu số đối với các sản phẩm nhập khẩu vào EU; đạo luật phòng chống lao động cưỡng bức với người Duy Ngô Nhĩ (Tân Cương, Trung Quốc) của Hoa Kỳ…

2. Nhận định diễn biến chiến tranh thương mại giữa các nước lớn trên thế giới và tác động đến xuất khẩu của Việt Nam

2.1. Khái quát diễn biến chiến tranh thương mại giữa các nước lớn

Với mục đích chính của vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ là đưa các công việc sản xuất vào Mỹ và thu hẹp thâm hụt thương mại của Mỹ, từ khi nhậm chức ngày 20/01/25, ông Donald Trump liên tục có những động thái ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình thương mại giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Ngay khi bước sang tháng 2/2025, thế giới đứng trước kịch bản chiến tranh thương mại có thể bùng nổ ở phạm vi toàn cầu. Trung Quốc, Canada và Mexico là những quốc gia mà Tổng thống Mỹ Donald Trump nhắm đến đầu tiên trong quyết định áp thuế vào ngày 01/02/2024. Cụ thể:

- Ngày 01/02/2025, Tổng thống Donald Trump đã ký sắc lệnh hành pháp áp đặt thuế quan với ba đối tác thương mại lớn của Mỹ là Canada, Mexico và Trung Quốc. Sắc lệnh này có hiệu lực từ ngày 04/02/2025, tuy nhiên cùng ngày, vị Tổng thống này đã tuyên bố tạm hoãn thực hiện Sắc lệnh nêu trên trong vòng 01 tháng đối với Canada và Mexico. Động thái này của Tổng thống Donald Trump đã khiến cho không chỉ các quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp bởi Sắc lệnh trên mà còn cả những quốc gia khác cũng bày tỏ sự quan ngại, đặc biệt là các quốc gia có thâm hụt thương mại lớn với Hoa Kỳ.

- Ngày 01/02/2025, Hoa Kỳ công bố áp thuế 25% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mexico và Canada từ ngày 04/02/2025 (sau đàm phán, đã tạm hoãn 30 ngày) và thuế tăng thêm 10% với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc (hiệu lực từ ngày 04/02/2025).

- Ngày 07/02/2025, Hoa Kỳ công bố kế hoạch áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước nhằm tái định hình quan hệ thương mại toàn cầu theo hướng có lợi cho Hoa Kỳ.

- Ngày 10/02/2025, Mỹ chính thức công bố áp thuế mức 25% đối với thép và nhôm, áp dụng đối với tất cả các nước (trừ Úc) từ ngày 04/3/2025.

- Ngày 13/02/2025, Mỹ công bố kế hoạch "Thương mại công bằng và đối ứng" trong quan hệ thương mại (Kế hoạch chi tiết sẽ hoàn tất trước ngày 01/4/2025).

- Ngày 18/02/2025, Tổng thống Donald Trump công bố ý định áp thuế với ô tô khoảng 25% (sớm nhất có thể áp dụng vào ngày 02/4/2025) và các loại thuế tương tự với chất bán dẫn và dược phẩm (chưa công bố thời gian cụ thể). Sau đó, Tổng thống Donald Trump thông báo dừng áp thuế với Mexico và Canada trong một tháng, còn lệnh tăng thuế 10% với hàng Trung Quốc vẫn có hiệu lực, khiến Bắc Kinh lập tức tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế 15% đối với than và các sản phẩm khí đốt tự nhiên hóa lỏng LNG; mức thuế 10% đối với dầu thô, máy móc nông nghiệp, ô tô động cơ lớn nhập khẩu từ Mỹ.

- Ngày 12/3/2025, Hoa Kỳ bắt đầu chính thức áp thuế 25% với toàn bộ nhôm, thép nhập khẩu vào nước này, không có ngoại lệ hay miễn trừ. Theo Hiệp hội Sắt Thép Hoa Kỳ, nước này nhập khẩu thép nhiều nhất từ Canada, Brazil, Mexico, Hàn Quốc và Việt Nam.

- Ngày 02/4/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố chính sách thuế nhập khẩu mới áp dụng với hơn 180 nền kinh tế. Các nước như Anh, Brazil, Singapore chịu thuế 10%; EU, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ bị áp mức 20 - 26%. Mỹ sẽ áp mức thuế nhập khẩu chung 10% đối với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ ngày 05/4/2025. Sau đó, kể từ ngày 09/4/2025 các đối tác thương mại lớn sẽ chịu mức thuế đối ứng cao hơn theo danh sách đã công bố.

- Ngày 03/4/2025, Nhà Trắng công bố danh sách hàng trăm sản phẩm được miễn trừ khỏi thuế đối ứng. Cụ thể, các mặt hàng như năng lượng, khoáng sản, vaccine, nhôm và thép sẽ không bị áp thêm thuế khi nhập khẩu vào Mỹ. Động thái này được cho là nhằm bảo vệ chuỗi cung ứng chiến lược và hạn chế tác động lan rộng tới nền kinh tế trong nước.

- Ngày 09/4/2025, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump thông báo tạm dừng áp thuế đối ứng trong 90 ngày với hơn 75 quốc gia đối tác thương mại không trả đũa Hoa Kỳ, trong đó có Việt Nam; mức thuế nhập khẩu chung 10% vẫn được duy trì trong thời gian này. Riêng đối với Trung Quốc, thuế sẽ tăng lên tổng cộng 125%.

- Ngày 10/4/2025, Tổng thống Donald Trump đã chính thức nâng tổng mức thuế nhập khẩu đối với hàng hóa Trung Quốc lên tới 145%. Mức thuế này bao gồm 34% thuế đối ứng công bố ngày 02/4/2025, thuế bổ sung 50% có hiệu lực từ ngày 09/4/2025, cùng các loại thuế trước đó đối với các sản phẩm liên quan đến fentanyl và nhiều mặt hàng công nghệ cao. Chính quyền Mỹ khẳng định biện pháp này nhằm bảo vệ sản xuất trong nước và buộc Trung Quốc phải thay đổi chính sách thương mại mà Washington cho là không công bằng.

- Ngày 18/4/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump phát tín hiệu rằng cuộc chiến thuế quan trả đũa với Trung Quốc có thể sắp kết thúc sau khi áp mức thuế lên đến 145% với hàng hóa Trung Quốc. Ông cho biết, Trung Quốc đã chủ động liên hệ và Mỹ có thể không tiếp tục tăng thuế để tránh gây hại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, hiện chưa có cuộc đàm phán cấp cao nào được công bố.

- Ngày 02/5/2025, Mỹ chính thức chấm dứt chính sách miễn thuế “de minimis” đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc có giá trị dưới 800 USD. Theo quy định mới, các lô hàng thương mại sẽ phải chịu thuế bổ sung 145% bên cạnh mức thuế hiện hành, ngoại trừ một số mặt hàng được miễn trừ như điện thoại thông minh. Động thái này nhằm ngăn chặn việc Trung Quốc lợi dụng kẽ hở thuế quan để bán hàng giá rẻ vào Mỹ và được đánh giá sẽ ảnh hưởng lớn đến các nền tảng thương mại điện tử như Shein và Temu - những nền tảng cung cấp mặt hàng giá rẻ mà người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng.

- Ngày 06/5/2025, tại phiên điều trần trước Ủy ban Dịch vụ Tài chính Hạ viện Mỹ, Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent cho biết Mỹ đang đàm phán với 17 trong số 18 đối tác thương mại quan trọng, nhưng chưa bắt đầu đàm phán với Trung Quốc. Ông nhấn mạnh rằng Trung Quốc vẫn chưa tham gia vào các cuộc đàm phán chính thức, mặc dù Tổng thống Donald Trump đã tuyên bố rằng các cuộc đàm phán đang diễn ra ở nhiều cấp độ.

- Ngày 07/5/2025, Việt Nam và Hoa Kỳ đã chính thức khởi động vòng đàm phán đầu tiên về thuế quan trong khuôn khổ đối thoại 90 ngày. Đây là phản ứng trực tiếp sau khi Mỹ công bố kế hoạch áp thuế đối ứng lên đến 46% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam vào đầu tháng 4/2025.

Trong phiên đàm phán đầu tiên, hai bên tập trung vào các vấn đề then chốt như: minh bạch xuất xứ, bảo hộ sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn về lao động và môi trường - những yếu tố Mỹ thường đưa vào đàm phán với các đối tác đang phát triển như một phần trong chiến lược “thương mại công bằng”.

- Ngày 08/5/2025, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định giữ nguyên lãi suất chuẩn ở mức 4,25 - 4,5% để đánh giá tác động của các chính sách thương mại đối với nền kinh tế. Trong tuyên bố đầu tiên kể từ khi Tổng thống Trump công bố các mức thuế quan lớn, Fed cảnh báo về sự gia tăng bất ổn kinh tế và cho rằng Mỹ đang đối mặt với rủi ro cao về lạm phát và thất nghiệp.

- Ngày 09/5/2025, Anh trở thành quốc gia đầu tiên đạt thỏa thuận thương mại với Mỹ kể từ khi Tổng thống Donald Trump công bố chính sách thuế đối ứng vào ngày 02/4/2025. Mặc dù thỏa thuận song phương giữa Trump và Thủ tướng Anh Keir Starmer đã được ký kết, nhưng Mỹ vẫn giữ mức thuế 10% đối với hầu hết hàng hóa nhập khẩu từ Anh. Đây là thỏa thuận đầu tiên trong hàng loạt thỏa thuận mà Mỹ dự kiến công bố và Trump coi đây là hình mẫu cho các đàm phán với các quốc gia khác.

Ông khẳng định Anh đã “đạt được thỏa thuận tốt” và các đối tác khác có thể phải chịu thuế cao hơn nếu có thặng dư thương mại lớn với Mỹ. Thỏa thuận này đánh dấu bước đầu trong nỗ lực của Mỹ nhằm giảm thâm hụt thương mại và điều chỉnh quan hệ thương mại toàn cầu.

- Ngày 14/5/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh hành pháp giảm thuế nhập khẩu đối với các lô hàng có giá trị dưới 800 USD từ Trung Quốc, từ 120% xuống còn 54%. Mức phí cố định 100 USD/kiện hàng gửi qua Bưu điện Mỹ được giữ nguyên và kế hoạch tăng lên 200 USD vào tháng 6 đã bị hủy bỏ. Đây là kết quả của thỏa thuận tạm thời kéo dài 90 ngày giữa Mỹ và Trung Quốc, nhằm giảm căng thẳng thương mại và hỗ trợ các nền tảng thương mại điện tử như Shein và Temu. Mặc dù mức thuế mới vẫn cao hơn so với chính sách miễn thuế trước đây, nhưng quyết định giảm thuế được kỳ vọng sẽ góp phần hạ giá hàng hóa tiêu dùng và giảm áp lực lạm phát. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo việc áp thuế trên diện rộng đối với hàng hóa giá trị thấp có thể gây quá tải cho hệ thống hải quan và chuỗi logistics của Mỹ, ảnh hưởng đến tốc độ xử lý và chi phí vận hành.

- Ngày 15/5/2025, sau khi chính quyền Tổng thống Trump công bố tạm thời giảm thuế nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc từ 145% xuống 30% trong vòng 90 ngày, các doanh nghiệp Mỹ đã ồ ạt tăng đơn hàng để tranh thủ “chạy thuế”, khiến lượng đặt chỗ container từ Trung Quốc sang Mỹ tăng vọt tới 300%, tạo áp lực lớn lên chuỗi cung ứng toàn cầu.

- Từ ngày 19 - 22/5/2025, Việt Nam và Hoa Kỳ tiến hành vòng đàm phán thứ hai nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến thuế đối ứng và thúc đẩy quan hệ thương mại song phương.

- Ngày 03/6/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký sắc lệnh hành pháp nâng mức thuế nhập khẩu đối với mặt hàng nhôm và thép từ 25% lên 50%, có hiệu lực từ ngày 04/6/2025.

- Từ 09 - 10/6/2025, Mỹ và Trung Quốc đã tổ chức vòng đàm phán thương mại cấp cao lần thứ hai tại London. Cuộc gặp kéo dài trong 2 ngày đã đạt được một thỏa thuận khung mang tính then chốt, mở ra triển vọng mới trong việc giải quyết các bất đồng thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới và được kỳ vọng sẽ tháo gỡ các nút thắt trong quan hệ thương mại song phương, đặc biệt là vấn đề đất hiếm và nam châm.

Cùng thời điểm, nhiều tập đoàn lớn của Mỹ như Apple, Intel, Nike và HP đang gia tăng sức ép lên chính quyền Tổng thống Donald Trump, đề nghị xem xét giảm mức thuế nhập khẩu 46% đang áp dụng đối với hàng hóa từ Việt Nam. Các doanh nghiệp này nhấn mạnh vai trò của Việt Nam ngày càng quan trọng trong chiến lược “Trung Quốc + 1”, giúp các tập đoàn Mỹ đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm rủi ro và duy trì ổn định sản xuất toàn cầu.

- Từ 09 - 12/6/2025, vòng đàm phán thương mại lần thứ ba giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra tại Washington, D.C. đã đạt được nhiều tiến bộ tích cực. Hai bên đã thu hẹp đáng kể các khác biệt trong nhiều lĩnh vực và thống nhất tiếp tục thảo luận kỹ thuật nhằm hoàn thiện nội dung thỏa thuận song phương. Phía Hoa Kỳ đánh giá cao thiện chí và các đề xuất của Việt Nam, coi đây là nền tảng quan trọng cho các vòng đàm phán tiếp theo.

- Ngày 17/6/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Anh Keir Starmer đã chính thức ký kết và công bố thỏa thuận thương mại song phương giữa hai nước, đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ kinh tế hai nước, trong đó bao gồm nhiều điều khoản giảm thuế đáng kể. Thỏa thuận này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Anh sang Mỹ, đồng thời giúp các doanh nghiệp Mỹ tiếp cận nguồn cung chiến lược trong các lĩnh vực ô tô, hàng không và năng lượng tái tạo.

* Phản ứng đáp trả của các quốc gia

- Đáp trả lại động thái của Tổng thống Trump, Ủy ban Thuế quan Quốc vụ viện Trung Quốc lập tức tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế 15% đối với than và các sản phẩm khí đốt tự nhiên hóa lỏng LNG; mức thuế 10% đối với dầu thô, máy móc nông nghiệp, ô tô động cơ lớn nhập khẩu từ Mỹ. Ngoài ra, Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan Trung Quốc cũng thông báo nước này sẽ áp dụng biện pháp kiểm soát xuất khẩu đối với một số khoáng sản quan trọng như vonfram, tellurium, ruthenium, bismuth, molypden và các sản phẩm liên quan, viện dẫn lý do bảo vệ lợi ích quốc gia.

Từ ngày 12/4/2025, Bắc Kinh chính thức tăng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa Mỹ lên 84% và tiếp tục nâng lên mức 125%. Bộ Thương mại Trung Quốc khẳng định đây là biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và tuyên bố sẽ đáp trả “đến cùng” nếu Mỹ không thay đổi lập trường. Bắc Kinh cũng đã nộp đơn kiện Mỹ lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cáo buộc các biện pháp thuế quan của Washington vi phạm các nguyên tắc thương mại quốc tế.

- Ngay sau khi Sắc lệnh áp đặt thuế quan được công bố, Canada đã đáp trả lại bằng việc áp thuế 25% đối với lượng hàng hóa trị giá lên đến 155 tỷ đô-la Canada (106,5 tỷ đô-la Mỹ) để đáp trả mức thuế quan mới của Hoa Kỳ. Đồng thời, Chính phủ nước này đang cân nhắc các biện pháp đáp trả phi thuế quan khác, đồng thời kêu gọi người dân Canada trong thời gian tới tăng cường mua các sản phẩm nội địa và kích cầu tiêu dùng trong nước.

2.2. Một số tác động đối với xuất khẩu của Việt Nam

(i) Tác động chung đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam

- Việt Nam sẽ chịu tác động ngay khi các nước lớn áp thuế. Xuất khẩu đối mặt với nhiều rủi ro, dòng vốn đầu tư nước ngoài có thể dịch chuyển theo hướng khó đoán, trong khi các doanh nghiệp sản xuất sẽ chịu áp lực lớn từ sự đứt gãy chuỗi cung ứng. Gián đoạn chuỗi cung ứng làm tăng chi phí nhập nguyên liệu đầu vào.

- Các ngành hàng điện tử, dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm gỗ… có thể mất thị phần nếu các đối tác thương mại lớn áp dụng hàng rào thuế quan. Rủi ro bị coi là điểm trung chuyển hàng hóa né thuế, khiến Việt Nam sẽ bị giám sát chặt chẽ hơn, thậm chí có thể bị áp thuế cao dưới danh nghĩa lẩn tránh thương mại.

- Chiến tranh thương mại giữa các nước lớn có thể thúc đẩy dòng vốn FDI dịch chuyển khỏi Trung Quốc và Việt Nam là một điểm đến tiềm năng. Tuy nhiên, nếu môi trường kinh doanh không được cải thiện, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội này.

- Ngoài ra, Mỹ đang theo dõi chặt chẽ các nước có thặng dư thương mại lớn với họ. Rủi ro bị điều tra chống bán phá giá, gian lận thương mại, điều tra nguồn gốc xuất xứ hàng hóa (bao gồm cả của các doanh nghiệp nước ngoài liên quan đến chuỗi cung ứng), bảo hộ thương mại…, nhất là từ phía Mỹ sẽ gia tăng (thực tế đã tăng khá nhanh từ năm 2018 đến nay).

(ii) Tác động đối với một số nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam

a) Nhóm hàng nông sản, thủy sản

- Đối với hàng nông sản: Hàng nông sản của Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị NK hàng hóa của Hoa Kỳ (khoảng 1,6% năm 2024). Bên cạnh đó, các đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam khi xuất khẩu nông sản vào Hoa Kỳ chủ yếu là Mêhicô, Brazil, Ấn độ, Indonesia, Thái Lan… Nếu Hoa Kỳ áp thuế lên hàng nông sản nhập khẩu, kỳ vọng mức thuế nhập khẩu sẽ không quá cao đối với mặt hàng này và có thể ở mức thuế như các nước khác.

- Đối với hàng thủy sản: Trước đây, Hoa Kỳ chưa từng áp thuế đồng bộ lên sản phẩm thủy sản nhập khẩu từ các nước. Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ áp thuế, ngành thủy sản Việt Nam kỳ vọng ít chịu tác động và có thể tận dụng một số cơ hội từ các lệnh áp thuế tại thị trường Hoa Kỳ nếu mức áp thuế đối với Trung Quốc cao hơn.

Cụ thể: ngành cá tra sẽ được hưởng lợi nhiều hơn ngành tôm khi mức thuế nhập khẩu áp với Việt Nam kỳ vọng thấp hơn so với mức thuế đối với Trung Quốc, ngành tôm cũng ít bị ảnh hưởng tiêu cực nếu bị áp thuế đồng bộ do các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu tôm vào Hoa Kỳ chủ yếu là Ấn độ, Ecuador, Indonesia...

b) Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo

- Nhóm ngành điện tử: Chịu tác động hạn chế do đặc thù quy mô sản xuất và đầu tư lớn, công nghệ cao, phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp FDI. Riêng đối với lĩnh vực sản xuất chất bán dẫn, do ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam hiện mới tham gia ở khâu ATP (lắp ráp, kiểm thử, đóng gói) chứ chưa tham gia khâu sản xuất nên chưa bị tác động nhiều bởi chính sách thuế quan của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, mức thuế mới có thể tác động tiêu cực tới các quyết định đầu tư dự án sản xuất bán dẫn của các nước vào Việt Nam trong tương lai.

- Nhóm ngành dệt may, da giầy: Chịu tác động mạnh do áp lực cạnh tranh quốc tế cao, khả năng dịch chuyển chuỗi sản xuất dễ dàng hơn và độ nhạy giá cả ở mức cao. Tại thị trường Hoa Kỳ, hàng dệt may - da giầy Việt Nam cạnh tranh chủ yếu với Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Italy và Indonesia, nếu bị áp thuế quan cao hơn tại thị trường Hoa Kỳ, ngành sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức khi chi phí và hàng rào xuất khẩu tăng lên đáng kể.

- Nhóm ngành gỗ và sản phẩm gỗ: Chịu tác động trung bình do chuỗi cung ứng khá ổn định và nhu cầu tại Hoa Kỳ ở mức cao. Tại thị trường Hoa Kỳ, mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam cạnh tranh chủ yếu với Canada, Trung Quốc, Brazil và Mêhicô..., nếu bị áp thuế cao, khả năng dịch chuyển sản xuất khỏi Việt Nam sẽ chỉ ở mức độ trung bình do chuỗi cung ứng tương đối ổn định, nhu cầu tại thị trường Hoa Kỳ vẫn còn rất lớn; tuy nhiên áp lực cạnh tranh sẽ ở mức cao từ các đối thủ trong khu vực như Indonesia, Thái Lan và Malaysia (nhất là khi các đối thủ này chịu mức thuế thấp hơn).

- Đối với mặt hàng thép, khi các nước Canada, Mêhicô, Brazil, Hàn Quốc, Đức… bị tăng thuế nhập khẩu thép vào Hoa Kỳ từ 0% lên 25%, cũng như thép Trung Quốc đang chịu mức thuế 25%, thép Việt Nam có thể cạnh tranh sòng phằng với các nước này (thay vì chịu thiệt thòi do thuế cao hơn như trước đây). Tuy nhiên, do chịu áp thuế cao hơn nên doanh nghiệp các nước này có thể chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường khác, từ đó làm gia tăng mức độ cạnh tranh xuất khẩu thép của Việt Nam và ngay tại thị trường trong nước, nhất là với Trung Quốc.

- Đối với mặt hàng nhôm, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu nhôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 25,4% tổng kim ngạch xuất khẩu nhôm năm 2023. Một số mặt hàng xuất khẩu chính gồm các kết cấu bằng nhôm như cột lưới, khung mái, cửa ra vào; nhôm ở dạng thanh, que, hình... Với quyết định áp thuế mới tăng từ mức 10% lên 25%, nhôm Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ chịu tác động tiêu cực (dù giá trị tuyệt đối không lớn).

3. Khuyến nghị một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh thương mại giữa các nước lớn

- Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu trên cơ sở tận dụng các hiệp định thương mại tự do như CPTPP và EVFTA để tiếp cận các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Trung Đông hay Ấn Độ… thông qua: (i) Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, mở rộng, phát triển thị trường xuất khẩu mới nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, và Trung Quốc; các thị trường như châu Phi, Trung Đông và một số quốc gia ASEAN có thể là cơ hội tốt. (ii) Tổ chức thực thi có hiệu quả các cam kết FTA mà Việt Nam tham gia như EVFTA, CPTPP, RCEP để gia tăng kim ngạch xuất khẩu và giảm thiểu thuế quan.

- Tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ trên nhiều lĩnh vực, tăng cường các kênh đối ngoại theo hướng: (i) Trao đổi cởi mở với Hoa Kỳ về những biện pháp giúp cân bằng hơn cán cân thương mại; (ii) Xem xét chủ động có thể giảm thuế đối ứng và tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, nhất là những sản phẩm mà Hoa Kỳ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu (như chất bán dẫn, khí hóa lỏng tự nhiên - LNG, máy bay, thiết bị hàng không, thiết bị y tế, KH-CN, giáo dục - đào tạo, nông sản…).

- Đảm bảo quy tắc xuất xứ, truy xuất nguồn gốc và tuân thủ các cam kết thương mại quốc tế nhằm hạn chế nguy cơ bị Hoa Kỳ áp thuế chống lẩn tránh thương mại do vi phạm quy tắc xuất xứ.

- Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong quản lý và hoạt động xuất nhập khẩu: (i) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường sử dụng công nghệ thông tin. (ii) Khuyến khích đầu tư, tăng cường sử dụng công nghệ blockchain trong quản lý chuỗi cung ứng, xác thực xuất xứ hàng hóa và minh bạch hóa thông tin để tăng cường tính an toàn và độ tin cậy trong hoạt động xuất nhập khẩu.

- Tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất khẩu: (i) Thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất tiên tiến, công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm thiểu chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. (ii) Khuyến khích chuyển dịch sang xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

- Đầu tư, cải thiện hạ tầng logistics cho hoạt động xuất nhập khẩu, chú trọng phát triển logistics cho thương mại điện tử: (i) Đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng vận tải biển, đường bộ và đường sắt, nâng cao năng lực của các cảng biển và sân bay, giúp giảm chi phí và thời gian vận chuyển hàng hóa. (ii) Đầu tư xây dựng, cải thiện các dịch vụ kho bãi và logistics, đặc biệt là cho sản phẩm nông thủy sản.

- Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị: Xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu về xuất, nhập khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản.

- Tăng cường thực thi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và phát huy vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân.

- Tăng cường đầu tư cho xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu quốc gia: (i) Xây dựng thương hiệu quốc gia thông qua các chiến dịch marketing quốc tế. (ii) Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống hàng giả và hàng nhái, đặc biệt là trong các ngành xuất khẩu như dệt may, điện tử, và thực phẩm. (iii) Hoàn thiện hạ tầng pháp lý, tạo môi trường phát triển và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật cho thanh toán điện tử trong giao dịch thương mại và hỗ trợ pháp lý phát triển các hình thức kinh doanh mới (khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo…), phát triển lĩnh vực dịch vụ (tài chính, ngân hàng, hậu cần, bảo hiểm…).

- Đối với nhóm hàng nông sản, để đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định khắt khe nhất là của các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải tăng cường đầu tư công nghệ hiện đại và quy trình sản xuất sạch, cải thiện quy trình sản xuất, kiểm soát chặt chẽ chất lượng và đảm bảo tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, ứng dụng nền tảng số, công nghệ số vào quy trình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, nông dân và cơ quan chức năng trong việc nắm bắt thông tin về các thay đổi trong chính sách nhập khẩu và chuẩn bị sẵn sàng để thích ứng, bảo vệ lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp và người nông dân trong nước.

- Đối với nhóm hàng công nghiệp, các doanh nghiệp công nghiệp cần tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào nguyên, phụ liệu đầu vào nhập khẩu để hạn chế rủi ro khi có biến động về giá cả, đồng thời nâng cao khả năng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn nhập khẩu mới chặt chẽ và liên tục thay đổi của các nước thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản.

Các hiệp hội ngành hàng cần tăng cường phối hợp với các đơn vị của Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan, hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để kịp thời nắm bắt, cập nhật các thông tin về giá cả thị trường và các quy định, tiêu chuẩn, chính sách mới của các nước nhập khẩu đối với từng mặt hàng xuất khẩu chủ lực; cập nhật thông tin cảnh báo các nguy cơ bị kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng da giầy, túi xách tại thị trường sở tại; cập nhật hướng dẫn thực thi đạo luật chống phá rừng và đạo luật thẩm định chuỗi cung ứng vừa mới ban hành của EU để doanh nghiệp có kế hoạch chuẩn bị đáp ứng và kịp thời định hướng cho doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, xuất khẩu.

Tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương triển khai các sự kiện xúc tiến xuất khẩu theo định hướng chiến lược về nhóm thị trường trọng điểm của mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo; tổ chức, tham gia các sự kiện thương mại quốc tế quy mô lớn, hội chợ triển lãm uy tín tại những thị trường trọng điểm, thị trường giàu tiềm năng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57- NQ/TW.

2. Bộ Công Thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024, Nhà Xuất bản Công Thương, Hà Nội.

3. Chính phủ (2023), Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 05 tháng 7 năm 2023 về nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững giai đoạn 2023-2030.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2021-2030, Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

5. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định 1445/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2022 ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030.

6. Thủ tướng Chính phủ (2025), Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.

TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa

(Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang