QCVN 97:2025/BNNMT quy định giới hạn hóa chất và chế phẩm sinh học nuôi trồng thủy sản

author 05:59 03/12/2025

(VietQ.vn) - Nguồn nước nuôi trồng thủy sản tại nhiều vùng đang bị ô nhiễm do dư thừa chất hữu cơ, vi sinh vật gây hại, nếu không xử lý đúng cách dễ dẫn đến chết cá, tôm và thiệt hại lớn. QCVN 97:2025/BNNMT đặt ra tiêu chuẩn an toàn, bảo vệ môi trường và người nuôi.

Sự kiện: QCVN, TCVN: Tiêu chuẩn mới - Tương lai mới

Nuôi trồng thủy sản, từ ao cá, hồ tôm đến nuôi lồng và đầm, vốn dựa vào chất lượng nước tự nhiên hoặc cải tạo môi trường nuôi. Tuy nhiên, nhiều hệ thống nuôi hiện đang đối mặt với tình trạng nước và đáy ao bị ô nhiễm do dư thừa chất dinh dưỡng, chất thải hữu cơ và vi sinh vật gây hại. Khi môi trường nước không được kiểm soát — như pH, độ oxy, kim loại nặng, vi sinh vật vượt ngưỡng — thủy sản dễ bị stress, nhiễm bệnh hoặc chết hàng loạt. Với mật độ nuôi cao và phương thức nuôi thâm canh, nguy cơ này càng gia tăng.

Nhiều vùng nuôi sử dụng các chế phẩm xử lý môi trường, bao gồm hóa chất hoặc chế phẩm sinh học, để làm sạch đáy ao, ổn định nước và khử khuẩn. Tuy nhiên, nếu sử dụng sản phẩm không rõ nguồn gốc hoặc chưa kiểm nghiệm theo tiêu chuẩn, nguy cơ ô nhiễm nước hoặc tồn dư độc hại trong thủy sản sẽ tăng, đe dọa cả năng suất và sức khỏe người tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, việc có một quy chuẩn nghiêm ngặt để kiểm soát chất lượng các chế phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản trở nên cần thiết.

Quy định chặt chẽ về các hóa chất và chế phẩm sinh học sử dụng trong nuôi trồng thủy sản giúp nguồn nước không chứa kim loại hay sinh vật gây hại. Ảnh minh họa

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 97:2025/BNNMT có hiệu lực từ ngày 24/11/2025, quy định chặt chẽ về các hóa chất và chế phẩm sinh học sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Quy chuẩn đặt ra giới hạn an toàn với kim loại nặng độc hại: arsen (As) không vượt quá 5 mg/kg và chì (Pb) không vượt quá 30 mg/kg đối với hóa chất xử lý môi trường, trong khi với hóa chất khai thác tự nhiên, mức giới hạn có phần lỏng hơn, As không quá 15 mg/kg và Pb không quá 70 mg/kg.

Chế phẩm sinh học, gồm enzyme, vi sinh vật sống hoặc chiết xuất sinh học, phải đảm bảo không chứa vi sinh vật gây hại như Salmonella spp. trong 25 g/ml mẫu, và E. coli không vượt quá 10³ CFU/g hoặc CFU/ml. Những giới hạn này nhằm đảm bảo rằng nguồn nước nuôi không chứa kim loại nặng hay vi sinh vật nguy hại, bảo vệ thủy sản và người tiêu dùng.

Quy chuẩn cũng quy định nghiêm ngặt về công bố hợp quy và kiểm nghiệm. Mọi sản phẩm, dù sản xuất trong nước hay nhập khẩu, trước khi lưu hành đều phải được công bố hợp quy và chứng nhận bởi tổ chức đủ thẩm quyền. Sản phẩm nội địa cần thực hiện theo thông tư công bố hợp chuẩn hoặc hợp quy; với sản phẩm nhập khẩu, mỗi lô hàng phải được kiểm nghiệm, đánh giá kỹ lưỡng trước khi phân phối. Quy trình đánh giá sự phù hợp bao gồm thử nghiệm mẫu điển hình, giám sát quá trình sản xuất, hoặc lấy mẫu từ thị trường để kiểm tra. Điều này đảm bảo các chế phẩm đưa vào sử dụng không gây ô nhiễm nguồn nước.

QCVN 97:2025/BNNMT áp dụng cho tất cả tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, phân phối hoặc sử dụng hóa chất và chế phẩm sinh học phục vụ nuôi trồng thủy sản. Quy định này cung cấp cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương giám sát, kiểm tra sản phẩm và xử lý vi phạm, nhằm bảo vệ môi trường, thủy sản và người tiêu dùng.

Việc tuân thủ nghiêm ngặt QCVN 97:2025/BNNMT giúp người nuôi yên tâm về chất lượng nguồn nước, giảm rủi ro bệnh tật và tồn dư hóa chất hay vi sinh vật gây hại. Môi trường nuôi được bảo vệ, hệ sinh thái vùng nuôi duy trì, từ đó đảm bảo sản xuất bền vững và an toàn thực phẩm. Đối với doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu chế phẩm, tuân thủ quy chuẩn không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn nâng cao uy tín, trách nhiệm xã hội và tránh rủi ro bị xử phạt hoặc thu hồi sản phẩm.

An Dương 

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang