Thuốc generic chất lượng cao- mở rộng khả năng tiếp cận thuốc an toàn, giá hợp lý cho người dân
(VietQ.vn) - Trong bối cảnh chi tiêu y tế bình quân đầu người đang tăng nhanh gấp đôi tốc độ tăng thu nhập khả dụng, việc phát triển thuốc generic chất lượng cao là một giải pháp chiến lược giúp Việt Nam giảm gánh nặng chi phí y tế, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận thuốc an toàn, hiệu quả và có giá hợp lý cho người dân.
Chi tiêu y tế tăng nhanh gấp đôi thu nhập
Tại tọa đàm “Giá trị tương lai của thị trường thuốc generic chất lượng cao” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 5/11/2025, ông Luke Treloar- Thành viên Điều hành, Giám đốc Khối tư vấn Chiến lược Ngành Y tế và Khoa học đời sống, Công ty KPMG Việt Nam- đã công bố Báo cáo “Giá trị tương lai của thị trường thuốc generic tại Việt Nam”, với nhiều phân tích chuyên sâu và đề xuất lộ trình cải cách chính sách y tế.

Tọa đàm “Giá trị tương lai của thị trường thuốc generic chất lượng cao” ngày 5/11/2025
Thuốc generic có thành phần, hàm lượng, dạng bào chế, cách sử dụng cũng như tác dụng giống thuốc biệt dược (thuốc phát minh, hay còn gọi là thuốc gốc) đã được cấp phép trước đó. Tuy nhiên, thuốc generic được sản xuất sau khi bằng sáng chế của thuốc gốc hết hiệu lực, thường có giá thành rẻ hơn rất nhiều.
Theo báo cáo của KPMG, Việt Nam đang bước vào thời kỳ già hóa dân số nhanh, khi tỷ lệ người cao tuổi dự kiến tăng thêm 3,6% vào năm 2034, kéo theo nhu cầu chăm sóc sức khỏe và sử dụng thuốc tăng mạnh. Hiện có 9/10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Việt Nam là các bệnh không lây nhiễm, với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) hàng năm đều vượt 2,2%. Trong đó, bệnh tim thiếu máu cục bộ, thận mạn tính và phổi tắc nghẽn mạn tính ghi nhận mức tăng mạnh nhất, từ 3,2% đến 3,8% trong giai đoạn 2019–2024.
Ông Luke Treloar nhận định, dù Việt Nam đã đạt mức phổ cập bảo hiểm y tế và xây dựng được nền y tế vững mạnh, song áp lực ngân sách y tế ngày càng lớn. Trong giai đoạn 2024–2029, chi tiêu y tế được dự báo tăng 17,6%/năm, trong khi thu nhập khả dụng chỉ tăng 11%/năm. Điều này đồng nghĩa, tỷ trọng chi tiêu cho y tế trong thu nhập cá nhân có thể tăng từ 8,1% năm 2020 lên 13,3% vào năm 2029, tạo áp lực tài chính lớn hơn cho người dân.
Trong bối cảnh đó, thuốc generic chất lượng cao được xem là lựa chọn chiến lược. Ông Luke Treloar nhấn mạnh: “Khi dân số già hóa, nhu cầu chăm sóc y tế và sử dụng thuốc tăng mạnh. Thuốc generic là lựa chọn hiệu quả về chi phí, giúp người dân duy trì khả năng chi trả, đồng thời hỗ trợ hệ thống y tế phát triển bền vững và bao trùm hơn”.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc sử dụng thuốc generic có thể giảm 49%–69% chi phí chăm sóc sức khỏe cho mỗi ngày điều trị, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế tại 12 quốc gia châu Âu trong giai đoạn 2005–2014.
Trong thời kỳ này, số ngày điều trị trên đầu người tại các thị trường này tăng mạnh: Pháp có mức tăng nhỏ nhất 1,4 lần, còn Ba Lan và Slovakia tăng lần lượt 2,9 và 3,1 lần.
Đáng chú ý, 7/12 quốc gia châu Âu đã giảm đáng kể chi phí điều trị nhờ tác động tích cực của thuốc generic. Trong đó, Thụy Điển, Pháp và Slovenia tiết kiệm cao nhất, lần lượt 40%, 31% và 30%, còn 4 nước khác giảm từ 7% đến 13% nhờ hiệu ứng giảm giá thuốc. “Điều này cho thấy ảnh hưởng tích cực rõ rệt của thuốc generic đối với khả năng tiếp cận dịch vụ y tế trên khắp châu Âu”, ông Treloar nhấn mạnh.

Ông Luke Treloar- Thành viên Điều hành, Giám đốc Khối tư vấn Chiến lược Ngành Y tế và Khoa học đời sống, Công ty KPMG Việt Nam phát biểu
Phát triển thuốc generic chất lượng cao- Giải pháp chiến lược
Theo KPMG, thị trường dược phẩm Việt Nam đang tăng trưởng mạnh, từ 4 tỷ USD năm 2019 lên 9,2 tỷ USD dự kiến năm 2029, trong đó thuốc generic giữ vai trò chủ đạo. Thị phần thuốc generic dự kiến tăng từ 55,2% năm 2019 lên 62,4% năm 2029, với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 11% giai đoạn 2019–2024. Ngược lại, thuốc biệt dược chỉ tăng 7%, ước đạt 1,4 tỷ USD vào năm 2029.
Sự dịch chuyển này cho thấy xu hướng ưu tiên sản phẩm phù hợp với khả năng chi trả, qua đó mở rộng khả năng tiếp cận thuốc điều trị và biến phân khúc generic trở thành động lực tăng trưởng nhanh nhất của ngành dược trong thập kỷ tới.
Đáng chú ý, Việt Nam hiện là một trong những thị trường thuốc generic năng động nhất châu Á. Giai đoạn 2019–2024, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9,1%, xếp thứ ba khu vực sau Trung Quốc (12,8%) và Singapore (9,3%).
Dự báo giai đoạn 2024–2029, tốc độ này tăng lên 9,7%, đưa Việt Nam trở thành thị trường thuốc generic tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á.
Mặc dù vậy, chi tiêu bình quân đầu người cho thuốc generic tại Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chỉ 35,9 USD vào năm 2024, xếp thứ tư trong khu vực. Điều này cho thấy, mức độ thâm nhập thị trường còn thấp, song dư địa tăng trưởng rất lớn khi thu nhập và tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh.
Hiện Việt Nam đang chuyển mình từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình, với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người 5,9%/năm, dự kiến đạt 8,9%/năm trong 5 năm tới. Cùng với đó, Chiến lược quốc gia phát triển ngành dược đến 2030 đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm dược phẩm của ASEAN, tập trung vào nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng thuốc nội và xuất khẩu.
“Với nhu cầu chăm sóc sức khỏe tăng mạnh, thu nhập cải thiện và chính sách khuyến khích phát triển thuốc trong nước, ngành thuốc generic Việt Nam đang đứng trước cơ hội mở rộng nhanh chóng, hứa hẹn tăng trưởng bền vững và đóng góp giá trị lâu dài cho hệ thống y tế cũng như nền kinh tế quốc gia”- ông Luke Treloar khẳng định.

Ngành thuốc generic Việt Nam đang đứng trước cơ hội mở rộng nhanh chóng
Cần chính sách đủ mạnh để phát triển thuốc generic chất lượng cao
Dù được đánh giá có tiềm năng lớn, song để hiện thực hóa mục tiêu phát triển thuốc generic chất lượng cao, ngành dược Việt Nam vẫn phải vượt qua không ít rào cản - từ năng lực sản xuất, thủ tục hành chính cho đến hiệu quả thị trường.
Theo báo cáo của KPMG, tính đến nay, Việt Nam có 288 cơ sở sản xuất dược phẩm, nhưng chỉ 20 cơ sở đạt chuẩn EU-GMP (tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt của châu Âu). Trong số này, 12 cơ sở thuộc nhà đầu tư trong nước và 8 cơ sở thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Con số khiêm tốn này phản ánh rõ khoảng cách về công nghệ, quản trị và nguồn lực đầu tư giữa ngành dược Việt Nam và các nước có nền công nghiệp dược phát triển.
Chi phí cao để đáp ứng tiêu chuẩn EU-GMP là một trong những thách thức lớn nhất với các nhà sản xuất trong nước. Việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghệ, áp dụng quy trình kiểm soát chất lượng tiên tiến và duy trì chứng nhận quốc tế đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp dược nội địa có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi.
Không chỉ vướng ở khâu đầu tư, các rào cản pháp lý cũng đang làm chậm bước tiến của ngành. Sự chồng chéo về văn bản phạm quy pháp luật khiến các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động. Cơ chế cấp phép chưa được rõ ràng. Sự chậm trễ trong phê duyệt khiến thuốc generic khó tiếp cận thị trường đúng thời điểm, làm tăng chi phí sản xuất, kéo dài thời gian thu hồi vốn và cuối cùng là giảm khả năng tiếp cận thuốc giá rẻ của người dân.
Một rào cản khác đến từ chính chính sách giá thuốc generic. Việc giữ giá bán ở mức thấp giúp người bệnh dễ tiếp cận, nhưng cũng làm giảm động lực đầu tư nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp đạt chuẩn cao như EU-GMP. Biên lợi nhuận mỏng khiến họ e dè trong việc tái đầu tư cho nghiên cứu, cải tiến công nghệ và mở rộng sản xuất, từ đó kìm hãm đổi mới sáng tạo trong ngành dược.
Cho rằng Việt Nam chưa có đủ cơ chế khuyến khích để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, nâng cấp và duy trì dây chuyền sản xuất đạt chuẩn EU-GMP, ông Gregory Charitonos- Chủ tịch Tiểu ban Thuốc tiêu chuẩn châu Âu (EuroCham), đề xuất Chính phủ xem xét một gói cơ chế ưu đãi đặc biệt, bao gồm miễn giảm thuế, tín dụng ưu đãi hoặc ưu tiên trong đấu thầu thuốc, nhằm khuyến khích các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiêu chuẩn EU cao hơn.
Ông cũng đề xuất Việt Nam áp dụng cơ chế xét duyệt nhanh hoặc công nhận lẫn nhau đối với các thuốc generic đã được phê duyệt bởi các cơ quan quản lý nghiêm ngặt như EMA hoặc FDA; đơn giản hóa yêu cầu hồ sơ kỹ thuật, giảm thủ tục hành chính; ưu đãi thuế và đầu tư cho các doanh nghiệp mang công nghệ sản xuất, hệ thống kiểm định chất lượng và chương trình đào tạo mới vào Việt Nam.
Ông Nguyễn Thành Lâm- Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược, cho biết, theo thống kê của Bảo hiểm y tế, khoảng 80% lượng thuốc sử dụng tại các cơ sở y tế công lập hiện nay là thuốc generic. Điều này cho thấy, chủ trương ưu tiên phát triển và sử dụng thuốc generic đã được thể chế hóa đầy đủ trong chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và đang dần đi vào thực tiễn thông qua hệ thống y tế công.
Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực khi thu hút hơn 1,8 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dược phẩm, song con số này có thể còn tăng mạnh hơn nếu môi trường chính sách được hoàn thiện theo hướng minh bạch, dự báo được và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Lê Kim Liên









