Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng được đề cử Danh nhân văn hóa thế giới
(VietQ.vn) - Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Tạp chí Chất lượng Việt Nam, PGS. TS Phạm Lan Oanh - Phó Viện trưởng Viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (VICAST) khẳng định, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhân vật hội đủ toàn bộ yêu cầu của UNESCO về tầm vóc trí tuệ, ảnh hưởng khu vực, và di sản mang giá trị phổ quát bền vững. Qua đó cho thấy việc đề cử ông là Danh nhân văn hóa thế giới là hoàn toàn xứng đáng.
PGS. TS Phạm Lan Oanh - Phó Viện trưởng Viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam. (Ảnh: Kim Ngọc)
Xin PGS.TS cho biết, vì sao chúng ta lựa chọn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nhân vật đề cử UNESCO vinh danh Danh nhân văn hóa thế giới?
Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là trường hợp hội tụ đầy đủ những tiêu chí cốt lõi mà UNESCO đặt ra đối với Danh nhân văn hoá thế giới: tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia, giá trị tri thức - giáo dục - đạo đức mang tính phổ quát, hệ thống tư liệu xác thực và sức lan tỏa trong cộng đồng. Việc lựa chọn Nguyễn Bỉnh Khiêm dựa trên ba nhóm lý do khoa học rất rõ ràng.
Thứ nhất, ông là nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng ở tầm khu vực Đông Á: Nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên ghi nhận ông như một học giả thông tuệ, được tôn là “An Nam Lý học Thái tổ”; Sử sách nhà Mạc - Lê đều thừa nhận ảnh hưởng chiến lược của ông qua các dự ngôn “an dân - giữ nước”, tiêu biểu như lời khuyên với Nguyễn Hoàng: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, nghĩa rằng “Một dãy Hoành Sơn hiểm trở kia có thể yên thân được muôn đời”. Lời khuyên này của ông đã góp phần định hình bản đồ chính trị - văn hóa Việt Nam nhiều thế kỷ sau.
Thứ hai, ông là nhà giáo dục và triết gia lớn, rất phù hợp lĩnh vực UNESCO phụ trách: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mở trường học ngay tại nhà, gọi là Bạch Vân am. Đây là trung tâm giáo dục lớn hàng đầu thời Lê - Mạc, đào tạo nhiều danh nhân nổi tiếng như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ (“Truyền kỳ mạn lục”), Đinh Thì Trung,… Ông được khẳng định là bậc đại sư của cả một thế hệ trí thức Việt Nam thế kỷ XVI.
Thứ ba, di sản của ông mang giá trị phổ quát có thể đóng góp cho nhân loại. Điều đáng chú ý là tầm ảnh hưởng vượt khỏi biên giới Việt Nam. Thư tịch cổ Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản đều có ghi chép về học thuật Đại Việt thời Lê - Mạc và đề cao vai trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như một học giả minh triết của Đông Á. Nhiều học giả Nhật Bản và Hàn Quốc hiện nay vẫn xem tư tưởng Trạng Trình là những tham chiếu quan trọng khi nghiên cứu tri thức khu vực.
Điển hình như tư tưởng “Thuận thiên”, “Dĩ dân vi bản”, “Thiên - Địa - Nhân” hài hòa với triết học Á Đông và phù hợp tinh thần phát triển bền vững thế kỷ 21. Đồng thời, Bạch Vân thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi phản ánh nhân sinh quan hướng thiện, hòa bình, giản dị, coi trọng tự nhiên - đây là những giá trị UNESCO đặc biệt đề cao.
Bởi vậy, việc lựa chọn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hoá hoàn toàn phù hợp với tiêu chí UNESCO và gắn với nhu cầu kiến tạo lại hệ giá trị Việt Nam trong bối cảnh đương đại.
Việc lựa chọn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm dựa trên những tiêu chí nào? Xin PGS. TS cho biết những yêu cầu mà quá trình xây dựng hồ sơ khoa học phải tuân thủ để bảo đảm phù hợp với tiêu chuẩn của UNESCO?
Căn cứ vào bộ tiêu chí của UNESCO dành cho kỷ niệm danh nhân, có bốn tiêu chí cốt lõi.
Tiêu chí thứ nhất là ảnh hưởng vượt phạm vi quốc gia: Tư tưởng của ông được ghi trong thư tịch Trung Quốc như Đại Việt thông sử, An Nam chí lược tục biên. Nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản (như GS. Momoki Shiro, ĐH Osaka chẳng hạn) phân tích quan niệm chính trị của ông. Ngoài ra, ở Hàn Quốc, Viện Nghiên cứu Đông Á cũng có chuyên khảo về triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hệ thống “Lý học An Nam”.
Tiêu chí thứ hai là có đóng góp xuất sắc cho các lĩnh vực UNESCO phụ trách gồm giáo dục - văn hóa - triết học: Bạch Vân am là trường học tư thục lớn nhất thế kỷ XVI. Tác phẩm có niên đại rõ ràng, còn lưu trong các kho Hán Nôm: Bạch Vân am thi tập ký hiệu A.1456, Bạch Vân quốc ngữ thi ký hiệu VNv.266.
Tiêu chí thứ ba là tính xác thực (Authenticity) và tính toàn vẹn (Integrity): Năm 2016, Đền Trạng Trình được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt. Hơn nữa, các tư liệu Hán Nôm liên quan đến ông còn phong phú, đã được Viện Nghiên cứu Hán Nôm kiểm kê.
Tiêu chí thứ tư là sự tôn vinh rộng rãi trong xã hội: Thể hiện qua việc trước ngày 01/7/2025 đã có nhiều trường học và tuyến đường tại gần 30 tỉnh, thành mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng với Lễ hội Trạng Trình được tổ chức hằng năm ở quy mô cấp tỉnh.
Về yêu cầu trong xây dựng hồ sơ UNESCO mà Việt Nam đang tuân thủ gồm các yêu cầu như sau: Mô tả tiểu sử và đóng góp của nhân vật. Chứng minh ảnh hưởng quốc tế qua tư liệu học thuật. Có ít nhất một quốc gia đồng bảo trợ (thường có 2 - 3 quốc gia đồng bảo trợ - ví dụ gần đây, năm 2025, Hồ sơ danh nhân Lê Quý Đôn có 5 quốc gia đồng bảo trợ). Có Kế hoạch hoạt động kỷ niệm ở cấp quốc gia và quốc tế. Tài liệu minh chứng có nguồn gốc xác thực.
Theo PGS. TS, tiêu chí nào khó nhất khi chứng minh giá trị toàn cầu của của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm?
Tôi cho rằng tiêu chí khó nhất là chứng minh ảnh hưởng xuyên quốc gia bằng hệ thống tư liệu quốc tế vững chắc.
Thứ nhất, các tư liệu Hán Nôm nhiều nhưng cần chuẩn hóa theo chuẩn quốc tế: 70% tư liệu về ông hiện vẫn ở dạng bản sao, bản chép tay, chưa so sánh đối chiếu giữa các dị bản. Đồng thời, hồ sơ UNESCO yêu cầu phải có bản dịch Anh ngữ chuẩn hóa.
Thứ hai là minh chứng ảnh hưởng ở Nhật - Hàn - Trung cần dẫn liệu chính xác. Ở Nhật Bản có các nghiên cứu về ảnh hưởng tư tưởng “tri hành hợp nhất” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với triết học khu vực. Hàn Quốc có giáo trình Đông Á học đề cập đến ông như một mắt xích của dòng Lý học sau Chu Hy. Trung Quốc coi ông là một nhân vật của “Việt Nam nho học” thời Minh - Thanh (được ghi trong Việt sử cương mục tiết yếu, Hải ngoại kỷ sự).v.v… Thư tịch của Việt Nam về Nguyễn Bỉnh Khiêm rất phong phú, nhưng để tương thích với chuẩn UNESCO, nhóm hồ sơ phải tiếp tục truy tìm, đối chiếu và đối thoại với thư tịch Đông Á, các luận văn tiến sĩ nước ngoài, những nghiên cứu mới của Nhật Bản – Hàn Quốc – Trung Quốc và các quốc gia khác.
Thứ ba là hệ thống sấm truyền, sấm ký cần được lý giải theo hướng khoa học - văn hóa: Hệ thống sấm truyền, sấm ký của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thường là những lời tiên tri, dự báo tương lai, được viết dưới dạng câu đố, thơ ca, đồng dao hay những lời sấm,… cần được chiêm nghiệm theo thời gian và có sự giải thích cẩn trọng. Đây là một thách thức rất lớn bởi chúng ta vừa phải chứng minh giá trị toàn cầu của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, vừa tránh rơi vào tuyên truyền mê tín dị đoan. Do đó nhóm biên soạn sẽ rất cẩn trọng khi đưa vào hồ sơ. Chúng tôi phải tiếp cận nội dung này từ góc độ văn hoá học – lịch sử tư tưởng, nhấn mạnh tính biểu tượng, chức năng cố vấn chính trị, tính dự báo của tri thức thế kỷ XVI, tránh mọi diễn giải mê tín – thần thoại hóa. Đây là công việc rất công phu, đòi hỏi sự phối hợp giữa lưu trữ, khảo cứu, phiên dịch và thẩm định khoa học.
Từ nay cho đến khi hoàn thiện hồ sơ vinh danh, chúng tôi sẽ tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo, xây dựng nhóm chuyên gia liên ngành về Hán Nôm - Triết học Phương Đông - Đông Á học, thậm chí là các nhà nghiên cứu về văn hoá tâm linh cũng cần cho ý kiến, để đảm bảo phần khó nhất này được xử lý khoa học và khách quan.
Vinh danh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Danh nhân văn hóa thế giới mang ý nghĩa gì đối với việc bảo tồn và quảng bá di sản văn hóa Việt Nam, thưa bà?
Ý nghĩa lớn nhất của việc vinh danh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Danh nhân văn hóa thế giới chính là nâng vị thế trí tuệ Việt Nam trên bản đồ tri thức thế giới.
Thứ nhất là xác lập Việt Nam là quốc gia có đóng góp cho tư tưởng nhân loại: Tư tưởng “Thuận thiên”, “Hài hòa người - thiên nhiên” của ông rất phù hợp với chương trình UNESCO về phát triển bền vững, giáo dục vì hòa bình, tôn trọng thiên nhiên.
Thứ hai là khơi dậy niềm tự hào văn hóa trong xã hội và thế hệ trẻ: Hồ sơ sẽ kéo theo việc giảng dạy, xuất bản sách, sản xuất phim tài liệu, ứng dụng di sản vào giáo dục - du lịch. Giới trẻ sẽ được tiếp cận tư tưởng tiến bộ và nhân văn của ông thông qua phương pháp truyền thông hiện đại.
Thứ ba là thúc đẩy ngoại giao văn hóa và hợp tác quốc tế: Việt Nam có thêm một biểu tượng văn hóa để giới thiệu với thế giới. Đồng thời, mở ra khả năng tổ chức các sự kiện quốc tế: hội thảo, triển lãm lưu động, trao đổi học thuật với Nhật Bản - Hàn Quốc - Trung Quốc và các quốc gia bạn bè khác.
Thứ tư là có tác động lan tỏa đến kinh tế - du lịch bền vững: Hiện nay, Di tích Trạng Trình tại thành phố Hải Phòng đã và đang trở thành điểm đến văn hóa quốc gia, giống như các di sản UNESCO khác. Đặc biệt, các di tích, địa danh, nhân vật… đã được tổ chức UNESCO ghi danh, luôn tạo hiệu ứng truyền thông mạnh, được bạn bè quốc tế quan tâm rộng rãi.
Sau khi UNESCO xem xét và (nếu được) vinh danh, theo PGS. TS, Việt Nam cần làm gì để phát huy giá trị di sản tư tưởng và đóng góp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong đời sống đương đại?
Chúng tôi nghĩ rằng đây là công việc đường dài, tuy nhiên có thể xác định có 3 nhóm nhiệm vụ chiến lược và 9 nhiệm vụ cụ thể.
Một là, bảo tồn - số hóa - chuẩn hóa tư liệu, trong đó: Số hóa toàn bộ thư tịch Hán Nôm về Nguyễn Bỉnh Khiêm (kho A, VHv, VNv tại Viện Hán Nôm). Lập cơ sở dữ liệu trực tuyến ba ngữ: Việt - Anh - Trung. Thực hiện dịch thuật học thuật tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm sang tiếng Anh.
Hai là, giáo dục - truyền thông - phổ biến tri thức: Biên soạn học liệu đưa vào chương trình phổ thông và đại học. Xây dựng phim tài liệu dài tập, triển lãm số, bảo tàng số Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tổ chức Giải thưởng học thuật Nguyễn Bỉnh Khiêm hàng năm cho nghiên cứu Hán Nôm và triết học Việt Nam.
Ba là, ngoại giao văn hóa - hợp tác quốc tế: Tổ chức Hội thảo quốc tế thường niên về Lý học và tư tưởng Đông Á; Thiết lập chương trình trao đổi nghiên cứu với Nhật Bản - Hàn Quốc - Trung Quốc. Đưa hình ảnh và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm vào sự kiện văn hóa tại các Đại sứ quán Việt Nam, triển lãm lưu động khu vực.
Mục tiêu không phải chỉ để được UNESCO ghi nhận, mà quan trọng hơn là biến di sản của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thành một nguồn lực văn hóa - giáo dục - tri thức phục vụ sự phát triển của quốc gia.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của bà!
Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có 8 Danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO vinh danh, bao gồm:
1. Nguyễn Trãi, anh hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất (1380 - 1442).
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất (1890 - 1969).
3. Danh nhân Nguyễn Du, Đại thi hào dân tộc (1765 - 1820).
4. Danh nhân Chu Văn An, Người thầy của mọi thời đại, nhà giáo lỗi lạc (1292 - 1370).
5. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn (1822 - 1888).
6. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772 - 1822).
7. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791), Danh y kiệt xuất, nhà tư tưởng y học nhân văn.
8. Lê Quý Đôn (1726 - 1784), Học giả bách khoa, nhà văn hóa lớn của Việt Nam.
Danh nhân văn hóa là báu vật của mỗi quốc gia góp phần làm giàu thêm di sản văn hóa của thế giới vì các mục tiêu phát triển và triết lý của UNESCO trên phạm vi toàn thế giới.
Kim Ngọc (thực hiện)









