Vai trò ngân hàng trong phát triển kinh tế tư nhân
(VietQ.vn) - Để phát triển kinh tế - xã hội bền vững nói chung, phát triển kinh tế tư nhân nói riêng, ngành ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành, các hội, hiệp hội liên quan để triển khai các giải pháp, chính sách hiệu quả, đồng bộ đưa dòng vốn vào kinh tế tư nhân.
Hiện thực hóa khát vọng tự chủ công nghệ
Nhìn tem nhãn thực phẩm người tiêu dùng cần hiểu gì?
Kinh tế 8 tháng: Sản xuất công nghiệp tiếp đà tăng trưởng, xuất siêu gần 14 tỷ USD
Theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW, để nâng cao vai trò ngân hàng trong hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển, cần loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác; đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân; ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại để dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vay để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng. Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm bao gồm cả động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp.
Theo Cục Thống kê, năm 2024 cả nước có hơn 233 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, gấp 1,2 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2024 đạt mức cao nhất từ trước đến nay với trên 76 nghìn doanh nghiệp.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 1.019,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,6% tổng vốn và tăng 5,3%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 2.064,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,9% và tăng 7,7%; Đầu tư tư nhân sẽ đóng góp khoảng 96 tỷ USD hay xấp xỉ 56% trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 174 tỷ USD vào năm 2025.
Theo Nghị quyết 68, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động, đóng góp trên 56% tổng đầu tư toàn xã hội và đóng vai trò quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.
Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, cả nước có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á…
Tuy nhiên, hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; thiếu tầm nhìn chiến lược và kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Ảnh minh hoạ.
Cả nước hiện có khoảng 500 doanh nghiệp huy động vốn trên sàn chứng khoán, trong đó có một số doanh nghiệp lên sàn vì thương hiệu chứ không phải để huy động vốn. Ngay cả những doanh nghiệp huy động vốn từ sàn chứng khoán cũng vẫn phải dựa vào vốn ngân hàng…
Trên thực tế, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đang có vai trò vô cùng quan trọng trong việc “tiếp máu”, tạo động lực tài chính cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, góp phần phát triển kinh tế và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước trong khi yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro… cũng luôn xác định các doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng ưu tiên cho vay với lãi suất ưu đãi khi cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường (hiện là 4%/năm).
Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 6,91 triệu tỷ đồng, tăng 14,72% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế. Trong đó, có 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% dư nợ nền kinh tế, có 208.992 (khoảng 21%) doanh nghiệp vừa và nhỏ còn dư nợ. Đồng thời, mặt bằng lãi suất cho vay đến nay đã giảm mạnh (lãi suất cho vay bình quân năm 2024 giảm 1,24%; Năm 2025 tiếp tục có xu hướng giảm so với cuối năm 2024; Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng ưu tiên cho vay với lãi suất ưu đãi khi cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường (hiện nay là 4%/năm). Năm 2025 tiếp tục có xu hướng giảm so với cuối năm 2024), góp phần hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp, người dân.
Minh chứng cụ thể là khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm tới khoảng 80% tổng dư nợ của Agribank với gần 1,4 triệu tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân với quy mô hơn 400 nghìn tỷ đồng chiếm khoảng 90% dư nợ đối với khách hàng doanh nghiệp và đã tăng hơn 30% trong vòng 5 năm qua. Trong năm 2024, Agribank chủ động giảm lãi suất cho vay 4 lần, đưa lãi suất cho vay bình quân thời điểm cuối năm giảm gần 2% so với đầu năm và thuộc nhóm thấp trên thị trường.
Trong 2 tháng đầu năm 2025, Agribank tiếp tục giảm từ 0,2%-0,5% sàn lãi suất cho vay ngắn hạn để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đồng thời triển khai 9 chương trình tín dụng quy mô trên 350 nghìn tỷ đồng, trong đó 240 nghìn tỷ đồng giành cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1-3% so với lãi suất thông thường, bảo đảm cung cấp đầy đủ các sản phẩm tín dụng tới tất cả đối tượng khách hàng.
Năm 2025 Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16%, cao hơn các năm trước và đã thông báo công khai ngày từ cuối năm 2024; cũng như sẽ chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để chủ động đáp ứng vốn cho nền kinh tế; Ngày 25/2/2025, Ngân hàng Nhà nước đã có Công văn 1328/NHNNCSTT về việc ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, trong đó quán triệt các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước để ổn định mặt bằng lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tăng khả năng tiếp cận tín dụng đối với khách hàng; phát triển các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng phù hợp với đặc thù của từng đối tượng khách hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng của ngành để hỗ trợ cho tổ chức tín dụng tăng cường cho vay không có tài sản bảo đảm.
Ngân hàng Chính sách xã hội tích cực triển khai các chương trình tín dụng chính sách đến người nghèo, đối tượng chính sách, hộ đồng bào dân tộc thiểu số; phối hợp với các địa phương tăng cường kết nối, đối thoại ngân hàng - doanh nghiệp để tháo gỡ vướng mắc trong tiếp cận tín dụng của người dân, doanh nghiệp.
Các tổ chức tín dụng cũng chủ động chia sẻ khó khăn và đồng hành cùng với người dân, doanh nghiệp, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay, linh hoạt hình thức nhận tài sản bảo đảm phù hợp để tăng khả năng tiếp cận vốn của khách hàng; điều chỉnh kế hoạch, chỉ tiêu kinh doanh, lợi nhuận để có điều kiện hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp; xây dựng các sản phẩm tín dụng cho các ngành, lĩnh vực phù hợp với chiến lược kinh doanh, khả năng cân đối nguồn lực của tổ chức tín dụng; chú trọng đầu tư tín dụng vào các dự án, công trình trọng điểm, tín dụng xanh, tín dụng phục vụ phát triển các ngành thế mạnh của vùng, địa phương; tiếp tục chuyển đổi số, cung cấp các sản phẩm công nghệ cả trong tín dụng và thanh toán; thúc đẩy tín dụng tiêu dùng và đẩy mạnh công tác truyền thông chính sách...
Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW, để nâng cao vai trò ngân hàng trong hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển, cần loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác; đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân; ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại để dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vay để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng. Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm bao gồm cả động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp.
Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG); hoàn thiện mô hình các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở cả trung ương và địa phương; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp lớn bảo lãnh cho các khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa; chấp nhận rủi ro do điều kiện khách quan, bất khả kháng trong hoạt động bảo lãnh; thực hiện quản lý theo mục tiêu tổng thể; quy định mức trích quỹ dự phòng tài chính hợp lý, nới lỏng điều kiện cấp bảo lãnh so với điều kiện vay vốn ngân hàng; có cơ chế bổ sung nguồn lực, chính sách bảo hiểm hợp lý; thành lập quỹ tái bảo lãnh và các mô hình bảo lãnh chéo, đồng bảo lãnh...
Đồng thời, sớm hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng đối tượng, đơn giản hoá, minh bạch hoá, số hoá điều kiện, quy trình, thủ tục tiếp nhận, thẩm định, cho vay và giải ngân vốn; đa dạng hoá nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, đóng góp từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế...; khẩn trương bổ sung chức năng, nhiệm vụ đầu tư vào các quỹ đầu tư địa phương và các quỹ đầu tư tư nhân để tăng nguồn cung vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; tài trợ vốn mồi cho các dự án khởi nghiệp, cho vay khởi nghiệp; xây dựng vườn ươm và hỗ trợ khởi nghiệp. Khuyến khích mô hình đồng tài trợ của các quỹ trung ương, địa phương, tư nhân và các tổ chức tài chính, tín dụng nhằm chia sẻ rủi ro và tăng mức ưu đãi cho các khoản vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Rà soát, sửa đổi bổ sung quy định về hoạt động của các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi để đa dạng hoá nguồn cung tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sửa đổi khung pháp lý về hoạt động của công ty cho thuê tài chính theo hướng mở rộng danh mục tài sản cho thuê, trong đó có tài sản phi truyền thống như phần mềm, quyền khai thác, tài sản trí tuệ, dữ liệu. Ban hành khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát về cho vay ngang hàng, về sàn giao dịch gọi vốn cộng đồng để kết nối trực tiếp doanh nghiệp nhỏ và vừa với cá nhân, tổ chức tài trợ vốn.
Ngoài ra, coi trọng kết nối, chia sẻ thông tin giữa các hệ thống ngân hàng, thuế và các cơ quan có liên quan, bảo đảm liên thông, chia sẻ dữ liệu về tình hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp, đánh giá tình hình mức độ tín nhiệm và chấm điểm tín dụng của doanh nghiệp từ phía các tổ chức tín dụng, các quỹ tài chính và tổ chức xếp hạng tín dụng thứ ba để tăng cường cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh. Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị, xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, chuẩn mực, chuẩn hoá chế độ kế toán, kiểm toán, thực hiện các giải pháp tăng uy tín và khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động cấp tín dụng; kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay phục vụ hệ sinh thái nội bộ. Khẩn trương nâng hạng, tái cơ cấu thị trường chứng khoán, phát triển thị trường bảo hiểm, hoàn thiện quy định về trái phiếu doanh nghiệp để nâng cao chất lượng và mở rộng kênh huy động vốn ổn định, chi phí thấp cho kinh tế tư nhân. Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý về chứng khoán hoá các khoản nợ.
Thực tiễn cho thấy, để phát triển kinh tế - xã hội bền vững nói chung, phát triển kinh tế tư nhân nói riêng, ngành ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành, các hội, hiệp hội liên quan để triển khai các giải pháp, chính sách hiệu quả, đồng bộ đưa dòng vốn vào kinh tế tư nhân;
Bên cạnh đó, để mối quan hệ cộng sinh này tốt hơn cũng cần yêu cầu các chủ thể kinh tế tư nhân chia sẻ và minh bạch hoá thông tin, nâng cao năng lực quản trị rủi ro và chủ động hơn trong việc tham gia vào các hoạt động của Hiệp hội doanh nghiệp, cũng như hợp tác với các hiệp hội kế toán, ngân hàng để hỗ trợ doanh nghiệp một cách hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân của BCT;
2. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội hàng tháng và năm của Cục Thống kê năm 2024 và 6 tháng đầu năm 2025;
3. Công văn 1328/NHNN-CSTT về việc ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay.
TS. Nguyễn Thị Kim Nhã - Đại học Nguyễn Trãi









