Vi phạm xả thải công nghiệp vẫn phổ biến, QCVN 40:2025 siết chặt yêu cầu tuân thủ
(VietQ.vn) - Vi phạm xả thải công nghiệp vẫn xảy ra tại nhiều địa phương, gây áp lực lên môi trường và quản lý nhà nước. QCVN 40:2025 đặt ra giới hạn nghiêm ngặt, buộc doanh nghiệp phải chuyển đổi công nghệ.
MB nhận bốn giải thưởng danh giá từ Visa
Giá nhà tiếp tục leo thang: Lệch pha cung – cầu và rủi ro bong bóng bất động sản
Plan International Việt Nam hỗ trợ khẩn cấp người dân Tuyên Quang khắc phục hậu quả mưa lũ
Theo quy định về bảo vệ môi trường, nước thải tại các khu công nghiệp phải được thu gom và xử lý đạt QCVN 40:2025/BTNMT, có hiệu lực từ ngày 1/9/2025 trước khi xả thải. Mặt khác, theo Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 (Quyết định số 879/QĐ-TTg), ngành công nghiệp của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng thân thiện với môi trường, hướng tới một ngành công nghiệp xanh và kết hợp với xu hướng kinh tế tuần hoàn. Do đó, việc tuần hoàn và tái sử dụng nước tại các KCN ở Việt Nam là một vấn đề được quan tâm.
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 40:2025/BTNMT quy định các giá trị giới hạn cho phép đối với các thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp khi xả ra nguồn nước tiếp nhận. Quy chuẩn này không áp dụng cho nước thải sinh hoạt, nước đô thị, nước khai thác từ công trình dầu khí ngoài khơi hay nước thải chăn nuôi nếu được xử lý riêng biệt.
Theo quy định, các dự án đầu tư mới, mở rộng hoặc nâng công suất từ sau ngày 1/9/2025 bắt buộc phải áp dụng QCVN 40:2025 ngay từ khi đi vào hoạt động. Các cơ sở đã vận hành hoặc được phê duyệt trước thời điểm này có thể tiếp tục áp dụng quy chuẩn cũ đến hết ngày 31/12/2031. Từ ngày 1/1/2032, toàn bộ các cơ sở phải tuân thủ QCVN 40:2025 mà không có ngoại lệ.
Một điểm quan trọng là quy chuẩn mới chi tiết hóa cách xác định nguồn tiếp nhận nước thải và quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc đánh giá khả năng phát sinh ô nhiễm tùy theo ngành nghề, nguyên liệu, công nghệ sản xuất và xử lý. Việc ban hành quy chuẩn này được xem là bước tiến mạnh trong kiểm soát ô nhiễm từ công nghiệp, buộc các doanh nghiệp nâng cấp hệ thống xử lý để đáp ứng giới hạn siết chặt hơn.

Công ty TNHH New Increase (VN) bị xử phạt do xả nước thải vượt quy chuẩn. Ảnh: Tuổi Trẻ
Trên thực tế, thời gian qua đã ghi nhận nhiều vụ doanh nghiệp vi phạm về xả thải vượt chuẩn. Gần đây nhất, tại tỉnh Vĩnh Long, Công ty TNHH New Increase (VN) đã bị xử phạt 345 triệu đồng do xả nước thải vượt quy chuẩn về ba thông số môi trường: Coliforms vượt 1.860 lần, BOD₅ vượt 4,1 lần và NH₄⁺ vượt 1,93 lần. Lưu lượng nước thải trung bình của doanh nghiệp này chỉ khoảng 26 m³/ngày nhưng hệ thống xử lý không đáp ứng được quy định, dẫn đến vi phạm nghiêm trọng.
Tại Đồng Nai, một công ty chuyên sản xuất linh kiện điện tử bị xử phạt gần 1,3 tỷ đồng vì hành vi tương tự. Doanh nghiệp này có lưu lượng xả thải lớn, từ 4.000 đến dưới 4.500 m³/ngày và đã xả ra môi trường với nồng độ Clo vượt quy chuẩn hơn 2,7 lần.
Hay tại Tây Ninh, một doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm bị xử phạt hơn 770 triệu đồng do xả thải vượt quy chuẩn gấp 10 lần, không qua xử lý. Cơ quan chức năng đã tạm đình chỉ hiệu lực giấy phép môi trường của doanh nghiệp trong thời hạn 4,5 tháng để buộc khắc phục.
Một vụ việc nghiêm trọng khác xảy ra tại Phú Thọ khi một tổng công ty lớn trong lĩnh vực sản xuất giấy bị xử phạt gần 1,9 tỷ đồng do xả nước thải công nghiệp vượt chuẩn kỹ thuật. Mức xử phạt cao thể hiện rõ nỗ lực siết chặt của các cơ quan chức năng trong việc đảm bảo tính răn đe.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính là do hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn vận hành hệ thống xử lý theo công nghệ cũ, chỉ đáp ứng quy chuẩn hoặc quy định địa phương trước đây. Việc nâng cấp công nghệ, thiết bị và năng lực vận hành đòi hỏi đầu tư lớn, là thách thức với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong khi đó, việc kiểm tra đột xuất phụ thuộc thời điểm, địa điểm và năng lực quản lý. Một số doanh nghiệp cố tình điều chỉnh thời gian xả thải để tránh bị phát hiện, trong khi nhiều địa phương thiếu nhân lực, thiết bị và phòng thí nghiệm đạt chuẩn, ảnh hưởng đến kết quả kiểm tra. Lộ trình chuyển tiếp đến 2031 cho phép áp dụng quy chuẩn cũ, khiến nhiều doanh nghiệp trì hoãn nâng cấp, gây áp lực dồn vào giai đoạn bắt buộc sau 2032. Nếu không có chính sách thúc đẩy thực hiện sớm, nguy cơ vi phạm gia tăng là rất lớn.
Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp cần lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, kết nối dữ liệu trực tuyến với cơ quan quản lý, chủ động nâng cấp công nghệ và công bố dữ liệu định kỳ. Nhà nước nên hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế, tư vấn kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời đẩy mạnh kiểm tra đột xuất, không thông báo trước.
Địa phương cần nâng cao năng lực kiểm tra và phân tích mẫu bằng trang thiết bị hiện đại, đào tạo nhân lực và tăng cường phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc gia. Công khai kết quả giám sát môi trường cũng giúp cộng đồng tham gia giám sát, phát hiện sớm sai phạm.
Liên quan tới vấn đề giải pháp, PGS.TS. Trần Việt Dũng (Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học, Học viện Ngân hàng) nhấn mạnh, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp luật về chuyển đổi xanh, lấy cảm hứng từ Luật khung chuyển đổi xanh của Hàn Quốc, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách phát triển bền vững.
PGS.TS. Trần Việt Dũng đề xuất tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng ít carbon, giảm tiêu thụ năng lượng, hạn chế các dự án tiêu tốn nhiều năng lượng và phát thải lớn. Việc gia tăng sử dụng năng lượng tái tạo thay thế năng lượng hóa thạch là then chốt để thúc đẩy nền kinh tế xanh.
Đồng thời, chính phủ cần ban hành các tiêu chuẩn khuyến khích tiết kiệm năng lượng như tiêu chuẩn xây dựng năng lượng thấp và định giá điện linh hoạt. Cuối cùng, việc xây dựng thị trường tài chính xanh với trái phiếu và tín dụng xanh là cần thiết để định hướng nền kinh tế phát triển công nghệ cao, giảm thiểu ô nhiễm.
An Dương









