Cà phê Việt Nam đạt năng suất cao nhất thế giới: Thực trạng, nguyên nhân thành công

author 16:47 19/09/2025

(VietQ.vn) - Việt Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, có năng suất cà phê bình quân đạt gấp hơn 3 lần năng suất cà phê toàn cầu. Nguyên nhân chủ yếu giúp cà phê Việt Nam đạt được thành tựu này là do Việt Nam tập trung vào sản xuất cà phê Robusta phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của Việt Nam; Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, đẩy mạnh việc trồng tái canh và ghép cải tạo cây cà phê… Bài viết nêu một số diễn biến chính về sản xuất, thị trường cà phê từ năm 2015-2026 và tìm ra nguyên nhân giúp năng suất cà phê Việt Nam đạt mức cao… từ đó rút kinh nghiệm để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam trong thời gian tới.

MỞ ĐẦU

Việt Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, bình quân năng suất cà phê Việt Nam đạt cao nhất thế giới và thường ở mức trên 3 lần bình quân năng suất cà phê toàn cầu. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 5,62 tỷ USD, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia và cân bằng cán cân thương mại. Đối với người nông dân, cà phê mang lại thu nhập lớn, giúp nhiều hộ gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống. Ngành cà phê Việt Nam cũng tạo nhiều việc làm, thông qua các khâu từ trồng trọt, thu hoạch đến chế biến và xuất khẩu...

Do đó, việc thu thập, phân tích, cập nhật thông tin về tình hình sản xuất và diễn biến thị trường cà phê là rất quan trọng. Bởi vì, khi hiểu rõ thực trạng, biết được nguyên nhân thành công của mình sẽ giúp ngành cà phê Việt Nam tìm giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập và phát triển bền vững. Đồng thời, những thông tin chính xác và kịp thời này giúp các cơ quan chức năng đưa ra những chiến lược, giải pháp phù hợp để hỗ trợ và thúc đẩy ngành cà phê Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Ảnh minh hoạ.

1. Tổng quan về diễn biến thị trường, giá cả cà phê thế giới và Việt Nam giai đoạn 2015-2026

1.1. Tổng quan về diễn biến thị trường, giá cả cà phê thế giới giai đoạn 2015-2026

Theo báo cáo của USDA công bố ngày 25/06/2025, kết thúc niên vụ cà phê 2024/25 (từ tháng 10/2024-9/2025), ước sản xuất cà phê toàn cầu đạt 10,46 triệu tấn (tăng 2,98% so với niên vụ 2023/24); trong đó, sản xuất cà phê Arabica là 5,92 triệu tấn (tăng 1,49%); cà phê Robusta là 4,54 triệu tấn (tăng 4,99%).

Trong niên vụ cà phê 2024/25, sản xuất cà phê Arabica tăng phần lớn từ Ethiopia, Colombia, Honduras, Indonesia…; sản xuất cà phê Robusta tăng phần lớn từ Việt Nam, Indonesia, Uganda, Thái Lan… chủ yếu là do thời tiết thuận lợi cho cà phê và người canh tác tăng cường đầu tư khiến cho năng suất cà phê tăng… (xem Hình 1).

Hình 1: Sản xuất cà phê toàn cầu theo niên vụ từ 2014/15-2025/26 và tốc độ tăng trưởng so với năm trước, (*) Dự báo.

Nguồn: Tập hợp từ các báo cáo của USDA.

Từ Hình 1 cho thấy, bình quân trong giai đoạn từ 2015-2019, tỷ trọng cà phê Arabica chiếm 58,98% sản xuất cà phê toàn cầu, cà phê Robusta chiếm 41,02%; bình quân trong giai đoạn từ 2020-2026, tỷ trọng cà phê Arabica giảm xuống 55,50% sản xuất cà phê toàn cầu, cà phê Robusta tăng lên 44,50%.

Như vậy, trong 7 năm gần đây tỷ trọng sản xuất và tiêu thụ cà phê Robusta toàn cầu có xu hướng tăng khá mạnh, khiến cho tỷ trọng tiêu thụ cà phê Arabica toàn cầu phải giảm tương ứng. Lý do chính là bởi: (i) Nhu cầu thị trường thay thế cà phê Arabica bằng loại cà phê Robusta có giá cạnh tranh hơn (vì chi phí sinh hoạt tăng và thu nhập khả dụng giảm); (ii) Cà phê Robusta thường được sử dụng để chế biến cà phê hòa tan và loại cà phê này đang ngày càng được các nhà rang xay sử dụng nhiều hơn để pha trộn với cà phê Arabica nhằm giảm giá thành cà phê hòa tan.

Trong các quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, bình quân giai đoạn từ niên vụ 2014/15-2025/26 sản xuất cà phê của Brazil chiếm 36,25% sản xuất cà phê toàn cầu, của Việt Nam chiếm 17,51% (trong đó, Việt Nam là nhà sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới). Như vậy, riêng sản xuất cà phê của Brazil và Việt Nam đã chiếm 53,76% sản xuất cà phê toàn cầu.

Trong niên vụ cà phê 2024/25, ước tính xuất khẩu cà phê của các quốc gia/khu vực trên thế giới đạt 8,83 triệu tấn (tăng 2,59% so với niên vụ 2023/24); trong đó, xuất khẩu cà phê hạt xanh (hạt thô chưa rang) là 7,29 triệu tấn (tăng 2,00%); cà phê rang và xay là 0,39 triệu tấn (tăng 4,98%); cà phê hoà tan là 1,15 triệu tấn (tăng 5,65%).

Trong các quốc gia/khu vực xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, bình quân giai đoạn từ niên vụ 2014/15-2025/26 tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Brazil chiếm 28,28% xuất khẩu cà phê toàn cầu, của Việt Nam chiếm 19,42%. Như vậy, riêng xuất khẩu cà phê của Brazil và Việt Nam đã chiếm 47,70% xuất khẩu cà phê toàn cầu.

Hình 2: Diễn biến giá cà phê bình quân theo tháng trên thị trường thế giới và Việt Nam xuất khẩu từ tháng 01/2015-06/2025.

Nguồn: WB Commodity Price Data (The Pink Sheet) và tính toán từ dữ liệu của Cục Thống kê Việt Nam.

Từ Hình 2 cho thấy: Năm 2024, giá cà phê (cả Arabica và Robusta) trên thị trường thế giới đều có xu hướng tăng rất mạnh, bình quân giá cà phê Arabica đạt mức 5,62USD/kg, tăng 23,83% so với năm 2023; giá cà phê Robusta đạt 4,41USD/kg, tăng 68,05%. Lý do chính là vì: (i) Kinh tế thế giới năm 2024 hồi phục rõ nét khiến cho nhu cầu cà phê tăng trở lại; (ii) Năm 2024 sản lượng cà phê Robusta toàn cầu tiếp tục giảm, còn cà phê Arabica lại tăng do ảnh hưởng của thời tiết tác động tới các vùng canh tác cà phê chính... càng làm cho giá cà phê Robusta tăng mạnh hơn; (iii) Căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực đến tính ổn định của nguồn cung container và tính khả dụng của các tuyến vận chuyển cà phê tới các thị trường tiêu thụ chính.

Sáu tháng đầu năm 2025, giá cà phê (cả Arabica và Robusta) trên thị trường thế giới đều có xu hướng giảm, nhưng vẫn ở mức cao: bình quân giá cà phê Arabica đạt 8,53USD/kg, tăng 73,46% so với cùng kỳ năm 2024; giá cà phê Robusta đạt 5,32USD/kg, tăng 38,23%.

Lý do chính là vì: (i) Trên thị trường thế giới, sản lượng cà phê đang hồi phục và nguồn cung đã trở nên dồi dào (nông dân Brazil đẩy mạnh bán cà phê Robusta do vụ thu hoạch tiến triển tốt; thị trường hấp thụ thêm nguồn cung Robusta mới từ Việt Nam, Indonesia…); (ii) Lượng mưa cao hơn bình thường trong mấy tháng gần đây ở Brazil cũng làm dịu bớt lo ngại về tình trạng khô hạn và gây bất lợi cho giá cà phê; (iii) Sản lượng lượng cà phê Arabica niên vụ 2025/26 được dự báo giảm 1,69% so với niên vụ trước (xuống 5,8 triệu tấn), trong đó giảm mạnh nhất là ở Costa Rica (giảm 9,86%), Brazil (giảm 6,41%), Colombia (giảm 5,30%)… khiến cho giá cà phê Arabica giảm chậm hơn Robusta.

Nhìn chung trong giai đoạn 2015-2025, giá cà phê trên thị trường thế giới biến động bởi những nhân tố chính như: cân đối cung - cầu trên thị trường; diễn biến thời tiết tác động tới các vùng trồng cà phê; hoạt động của các nhà đầu cơ, rang xay cà phê; diễn biến kinh tế thế giới; căng thẳng địa chính trị ở khu vực Trung Đông và Nga - Ukraine; hiệu quả hoạt động của các nhà sản xuất và kinh doanh cà phê...

1.2. Tổng quan về diễn biến thị trường, giá cả cà phê ở Việt Nam giai đoạn 2015- 2026

Theo báo cáo của USDA, ước tính niên vụ 2024 - 2025 của Việt Nam, sản xuất cà phê hạt xanh đạt 1,74 triệu tấn, tăng 5,26% so với niên vụ 2023 - 2024; xuất khẩu cà phê đạt 1,55 triệu tấn, tăng 5,74%; tiêu thụ cà phê trong nước đạt 0,24 triệu tấn, tăng 2,56%. Dự báo niên vụ 2025 - 2026, sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam có thể tăng khoảng 7-8% so với niên vụ 2024 - 2025 (xem Hình 3).

Hình 3: Sản xuất, xuất khẩu, tiêu thụ trong nước của cà phê Việt Nam theo niên vụ từ 2014 - 2015 - 2025 - 2026 và tốc độ tăng trưởng so với năm trước, (*) Dự báo.

Nguồn: Tập hợp từ các báo cáo của USDA.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), năm 2024 xuất khẩu cà phê của Việt Nam ước đạt 1,344 triệu tấn với kim ngạch 5,620 tỷ USD (giảm 17,23% về lượng, nhưng tăng 32,48% về kim ngạch so với năm 2023); giá cà phê xuất khẩu bình quân năm 2024 đạt 4,18 USD/kg (tăng 60,06%).

Sáu tháng đầu năm 2025 xuất khẩu cà phê của Việt Nam ước đạt 0,943 triệu tấn với kim ngạch 5,403 tỷ USD (tăng 4,05% về lượng và tăng 66,17% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2024); giá cà phê xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2025 đạt 5,73 USD/kg (tăng 52,12%).

Ở thị trường nội địa Việt Nam, năm 2024 giá cà phê có xu hướng tăng rất mạnh. Bình quân năm 2024, giá cà phê nhân xanh ở Việt Nam đạt 109,2 nghìn VND/kg (dao động từ 68,0-135,0 nghìn VND/kg), tăng 90,82% so với giá bình quân năm 2023; tháng 07/2024 giá bình quân cà phê nhân xanh ở Việt Nam đạt mức cao nhất là 125,1 nghìn VND/kg. Sáu tháng đầu năm 2025, giá cà phê có xu hướng giảm, nhưng vẫn ở mức cao: Bình quân giá cà phê nhân xanh ở Việt Nam đạt 123,2 nghìn VND/kg (dao động từ 95,0-140,0 nghìn VND/kg), tăng 25,64% so với giá bình quân cùng kỳ năm 2024; tháng 03/2025 giá bình quân cà phê nhân xanh ở Việt Nam đạt mức cao nhất là 130,1 nghìn VND/kg; tháng 06/2025 giá bình quân cà phê nhân xanh ở Việt Nam đạt mức thấp nhất là 105,0 nghìn VND/kg (xem hình 2).

Giá cà phê 6 tháng đầu năm 2025 ở Việt Nam có xu hướng giảm, nhưng vẫn ở mức cao là vì giá cà phê năm 2024 tăng rất mạnh, sang năm 2025 nguồn cung cà phê Robusta trên thế giới tăng đã tác động làm giảm giá cà phê toàn cầu cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, mức giảm giá cà phê chưa nhiều, nên giá vẫn đứng ở mức cao và người trồng cà phê ở Việt Nam vẫn có lợi nhuận khá tốt...

2. Năng suất cà phê bình quân ở Việt Nam đạt mức cao hơn 3 lần so với bình quân toàn cầu

Theo dữ liệu của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO), Việt Nam là quốc gia có năng suất cà phê cao nhất thế giới. Năm 2023, năng suất bình quân cà phê hạt xanh của Việt Nam đạt 2.934 kg/ha; mức năng suất này bằng 1,655 lần năng suất bình quân của Brazil, bằng 4,897 lần năng suất bình quân của Indonesia, bằng 9,855 lần năng suất bình quân của Mexico, bằng 3,231 lần năng suất bình quân toàn cầu.

Trong giai đoạn 2000-2023, tốc độ tăng trưởng gộp hàng năm (CAGR) năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam đạt mức khá cao so với mặt bằng chung của thế giới (chỉ thấp hơn CAGR năng suất của Brazil). Cụ thể: Năm 2023 so với năm 2000, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam đạt 2,45%, của Brazil đạt 3,30%, của Indonesia đạt 1,35%, của Mexico là -2,08%, của toàn thế giới là 1,14% (nếu tính trong giai đoạn 2000-2022 thì CAGR năng suất cà phê của Việt Nam còn tốt hơn nữa vì năng suất bình quân cà phê Việt Nam năm 2022 đạt mức cao nhất của giai đoạn 2000-2023).

Trong giai đoạn 2010-2023, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam lại đạt mức cao nhất thế giới. Cụ thể: Năm 2023 so với năm 2010, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam đạt 2,38%, của Brazil đạt 2,14%, của Indonesia đạt 0,81%, của Mexico là -0,81%, của toàn thế giới là 0,91% (xem Hình 4).

Việt Nam đạt được thành công lớn về năng suất cà phê như vậy là do 1 số nguyên nhân chính như sau:

(1) Việt Nam tập trung chủ yếu vào sản xuất cà phê Robusta vì đây là loại cà phê có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng… ở nhiều vùng đất của Việt Nam.

Theo các chuyên gia về kỹ thuật nông nghiệp, giống cây trồng là yếu tố quyết định phần lớn năng suất của cây cà phê, không có giống cà phê nào có thể phát triển hoàn hảo trong mọi môi trường. Một số loại cà phê sinh trưởng và cho năng suất tối ưu đối với một số quốc gia, nhưng nó có thể gặp nhiều hạn chế tại các quốc gia khác. Ví dụ ở Trung Mỹ (nơi thường xảy ra vấn đề bệnh gỉ sắt trên lá cà phê rất nghiêm trọng), nông dân sẽ phải tìm những giống cà phê kháng bệnh gỉ sắt. Nhà sản xuất phải lựa chọn các giống cà phê phù hợp với loại đất và môi trường của khu vực. Mà mỗi giống cà phê sẽ có các mức năng suất khác nhau. Vì thế, năng suất cà phê của mỗi quốc gia cũng sẽ có sự khác biệt đáng kể.

Hình 4: Chi tiết về năng suất bình quân cà phê hạt xanh của 10 quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất thế giới từ năm 2000-2023 (kg/ha).

Nguồn: FAO.

Robusta là giống cà phê có khả năng sinh trưởng tốt trong điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của nhiều vùng ở Việt Nam; chống chịu được nhiều loại sâu bệnh cho nên khi trồng loại cà phê này, không cần sử dụng nhiều loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm mốc mà vẫn cho năng suất cao. Cà phê Robusta sinh trưởng tốt ở độ cao từ 0 - 800 mét so với mực nước biển nên tương đối phù hợp với địa hình thực tế của Việt Nam, chúng được trồng ở những nơi thời tiết không ổn định và cần lượng mưa lớn hơn vùng trồng Arabica (Robusta phát triển tốt ở những khu vực mưa theo mùa từ 1.200-2.500 mm/năm, còn Arabica phát triển tốt ở những khu vực mưa theo mùa từ 1.100-2.000 mm/năm).

Loại Robusta còn có khả năng chịu được nhiệt độ cao và khí hậu ẩm ướt (điều kiện mà Arabica khó có thể phát triển tốt). Thời gian từ khi trồng tới khi được thu hoạch của loại cà phê Robusta ngắn hơn so với Arabica (sau khi trồng, Robusta chỉ mất từ 2-3 năm để cho thu hoạch, còn Arabica phải cần từ 4-5 năm), điều này giúp giảm thiểu chi phí lao động và tăng tính hiệu quả sản xuất. Do đó, cà phê Robusta là một lựa chọn an toàn hơn trước những biến động về khí hậu, dịch bệnh… ở nhiều vùng trồng cà phê.

Thêm nữa, Robusta cũng là dòng cà phê phù hợp với khẩu vị người dân Việt Nam, đây là nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất đáp ứng yêu cầu sản xuất trong nước. Cà phê Robusta có hàm lượng cafein từ 1,8-3,5%, nên hương vị rất đậm đà và khá mạnh, làm người uống thấy sảng khoái, tinh thần phấn chấn, có thể làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp (trong khi cà phê Arabica có hàm lượng cafein từ 0,9-1,7% nên uống khá nhẹ chỉ giữ tinh thần tỉnh táo chứ không đến mức tăng nhịp tim). Cà phê Robusta của Việt Nam được nhiều chuyên gia về cà phê đánh giá có chất lượng cao, có nhiều hương vị đặc sắc (mỗi vùng trồng cà phê ở Việt Nam có những đặc trưng hương sắc cà phê riêng), các vùng ở Việt Nam đều có điều kiện thuận lợi cho phát triển các sản phẩm cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản…

Vì vậy, theo dữ liệu của FAO, trước đây 40 năm sản lượng cà phê của Việt Nam còn rất nhỏ bé (sản lượng cà phê của Việt Nam năm 1984 mới chỉ đạt 4.800,0 tấn cà phê hạt xanh, với năng suất bình quân 405,7 kg/ha. Tuy nhiên, đến năm 1999 Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia đứng thứ 2 thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê, với sản lượng đạt 0,55 triệu tấn, năng suất bình quân 2.050 kg/ha (tăng 405,40% so với năng suất bình quân năm 1984), trong đó diện tích cà phê Robusta chiếm 93,0% tổng diện tích trồng cà phê và sản lượng cà phê Robusta chiếm 96,0% tổng sản lượng cà phê của Việt Nam.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng không phải ở bất cứ đâu trên thế giới trồng cà phê Robusta cũng cho năng suất cao như ở Việt Nam. Ví dụ trong giai đoạn từ niên vụ 2009/10-2022/23, ở Indonesia cà phê Robusta chiếm 86,92% tổng sản lượng cà phê của cả nước, nhưng năng suất cà phê bình quân chỉ đạt 566 kg/ha (bằng 22,24% năng suất cà phê bình quân của Việt Nam); ở Uganda cà phê Robusta chiếm 79,53% tổng sản lượng cà phê của cả nước, nhưng năng suất cà phê bình quân chỉ đạt 570 kg/ha (bằng 22,39% năng suất cà phê bình quân của Việt Nam); ở Ấn Độ cà phê Robusta chiếm 69,49% tổng sản lượng cà phê của cả nước, nhưng năng suất cà phê bình quân chỉ đạt 785 kg/ha (bằng 30,83% năng suất cà phê bình quân của Việt Nam)…

Do đó, nguyên nhân chính giúp cho cà phê Việt Nam đạt năng suất bình quân cao như thời gian qua là do các cấp chính quyền và người trồng cà phê ở Việt Nam đã chú trọng đầu tư, cập nhật kỹ thuật canh tác mới… sẽ được phân tích kỹ ở các phần sau.

(2) Nhà nước đã chú trọng đầu tư phát triển sản xuất cà phê, cập nhật và phổ biến rộng rãi nhiều kỹ thuật trồng trọt tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả canh tác cà phê.

Thực tế canh tác cà phê trên thế giới cho thấy, năng suất cà phê không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố khách quan mà còn chịu ảnh hưởng rất mạnh từ các yếu tố chủ quan. Trong đó, tập quán và cách thức canh tác cà phê ở mỗi quốc gia là yếu tố quyết định tạo nên sự chênh lệch rất lớn về năng suất cà phê hiện nay giữa các quốc gia trên thế giới.

Trong nhóm yếu tố khách quan, khí hậu, thời tiết, nước và độ ẩm, cùng với chất lượng đất đai… đều đóng vai trò quan trọng. Khí hậu, thời tiết thuận lợi và độ ẩm phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cây cà phê phát triển khoẻ mạnh, hạn chế dịch bệnh và thu được năng suất cao. Đất đai chứa đầy đủ dưỡng chất là điều cần thiết để đảm bảo sự phát triển của cây.

Những yếu tố chủ quan đóng vai trò quyết định đối với năng suất cà phê bao gồm: (i) Nguồn gốc giống và sự chọn lựa giống cà phê kỹ lưỡng, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, thói quen canh tác ở từng vùng là yếu tố quyết định đến sự thành công trong sản xuất cà phê, đảm bảo rằng cây được chọn có năng suất cao, chất lượng tốt và chống chịu với điều kiện khắc nghiệt. (ii) Trình độ người lao động trong canh tác cà phê là 1 trong những yếu tố quyết định tới sự phát triển và năng suất của từng cây cà phê; Phân bón cũng được xem là biện pháp rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng cà phê; Tưới nước đúng cách trong mùa khô là không thể thiếu để duy trì sinh trưởng và khả năng ra hoa của cây. (iii) Các biện pháp kỹ thuật như: trồng cây hợp lý, làm cỏ, cắt tỉa cành, kiểm soát độ tuổi của cây ở thời gian sung sức nhất… đều đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì môi trường ổn định và cung cấp điều kiện tốt nhất cho cây phát triển.

Vì vậy, từ năm 1986 Chính phủ Việt Nam đã tập trung nguồn lực đầu tư phát triển sản xuất cà phê, nhằm mục đích chuyển đổi cà phê thành một ngành nông nghiệp quan trọng. Ngoài các trang trại nhà nước, Chính phủ cũng khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân trồng cà phê.

Đồng thời, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã thực hiện nghiên cứu, kiểm nghiệm, biên soạn và công bố kịp thời rất nhiều tài liệu hướng dẫn kỹ thuật canh tác, chế biến, bảo quản cà phê như: Tiêu chuẩn ngành số 10 TCVN 84:1987 về Quy trình kỹ thuật trồng cà phê (1987, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát hành); Kỹ thuật trồng, chăm sóc và chế biến cà phê (1987, Ủy ban khoa học kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk); Sổ tay người trồng cà phê (1989, Nhà xuất bản Nông nghiệp); Kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến cà phê (1995, Nhà xuất bản Nông nghiệp); Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê (1999, Nhà xuất bản Nông nghiệp); Quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cà phê vối (2002, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); Trồng - chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cà phê - ca cao (2007, Nhà xuất bản Nông nghiệp); Quy trình tái canh cà phê vối (2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); Bộ tài liệu hướng dẫn sản xuất cà phê bền vững (2016, Nhà xuất bản Nông nghiệp); Quy trình tái canh cà phê chè (2018, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)… giúp cho người trồng, chăm sóc cà phê cập nhật và áp dụng kiến thức kỹ thuật mới, nâng cao hiệu quả canh tác cà phê.

Do đó, sản xuất cà phê tại Việt Nam đã tăng mạnh về diện tích, năng suất, sản lượng và giá trị xuất khẩu như đã nêu ở trên.

(3) Việt Nam đã đẩy mạnh việc trồng tái canh và ghép cải tạo cây cà phê, giúp tăng đáng kể năng suất cà phê bình quân ở Việt Nam.

Trong những năm từ sau năm 1999, Việt Nam luôn giữ vững vị thế là quốc gia đứng thứ 2 thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê, đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta. Tuy nhiên, tính tới năm 2010 ở Việt Nam có gần 100 nghìn ha cà phê già cỗi với tuổi đời trên 30 năm, năng suất thấp, trồng chủ yếu từ các giống cà phê thực sinh.

Vì vậy, năm 2010 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành Quy trình tái canh cà phê vối; tiếp đó, ngày 21/10/2014 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành Quyết định số 4521/QĐ-BNN-TT về việc "Phê duyệt đề án tái canh cà phê các tỉnh vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020". Đề án tái canh này nhằm mục tiêu chung là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và thu nhập cho người trồng cà phê; góp phần phát triển bền vững ngành cà phê giai đoạn 2014-2020. Mục tiêu cụ thể cho giai đoạn từ năm 2014-2020 là trồng tái canh và ghép cải tạo khoảng 120 nghìn ha cà phê trên địa bàn các tỉnh vùng Tây Nguyên, trong đó trồng tái canh 90 nghìn ha, ghép cải tạo 30 nghìn ha.

Nội dung đề án này đã hướng dẫn cụ thể các biện pháp kỹ thuật, như: Điều kiện tái canh, chuẩn bị đất, quy cách đào hố, bón phân, chăm sóc, tiêu chuẩn giống... phù hợp với quy trình tái canh cà phê hiện hành. Ngay sau đó, các chính sách về tín dụng, khoa học, công nghệ cũng được các cơ quan chức năng ban hành nhằm hỗ trợ quá trình thực hiện đề án. Trong đó, nổi bật nhất là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chương trình tín dụng với quy mô lên tới 12 nghìn tỷ VND (tương đương 560 triệu USD) và ban hành văn bản số 3227/NHNN-TD ngày 11/05/2015 để triển khai chính sách cho vay tái canh cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020.

Theo chương trình tín dụng này, mức cho vay do khách hàng và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) thỏa thuận nhưng tối đa là 150 triệu VND/ha đối với phương pháp trồng tái canh cà phê và 80 triệu VND/ha đối với phương pháp ghép cải tạo cà phê; Thời hạn cho vay tối đa là 8 năm đối với trồng tái canh cà phê, trong đó thời gian ân hạn trả nợ gốc và lãi là 4 năm tính từ thời điểm khách hàng và Agribank ký hợp đồng vay vốn; thời hạn cho vay tối đa là 4 năm đối với ghép cải tạo cà phê, trong đó thời gian ân hạn trả nợ gốc và lãi là 2 năm; Lãi suất cho vay trong thời gian ân hạn trả nợ gốc và lãi không vượt quá 7%/năm (thấp hơn lãi suất cho vay thông thường đối với sản xuất nông nghiệp trên thị trường từ 3-5 điểm %/năm)…

Kết quả là trong giai đoạn 2014-2021, vùng Tây Nguyên Việt Nam có diện tích cà phê tái canh và ghép cải tạo đạt 129 nghìn ha (trong đó, 95 nghìn ha là diện tích trồng tái canh, 34 nghìn ha là diện tích ghép cải tạo); lũy kế diện tích tái canh và ghép cải tạo cà phê từ năm 2011-2021 là 166,6 nghìn ha. Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc tái canh và ghép cải tạo cà phê giúp năng suất cà phê hạt xanh tăng từ 2.460 kg/ha (năm 2014) lên 2.802 kg/ha (năm 2020), năng suất cà phê năm 2020 tăng 13,90% so với năm 2014; Hiệu quả kinh tế của vườn được tái canh và ghép cải tạo tăng cao hơn sản xuất đại trà từ 25-40 triệu VND/ha-năm.

Kết quả phân tích từ dữ liệu về năng suất cà phê của FAO cho thấy: Trong giai đoạn 2000-2013, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam đạt mức thấp hơn CAGR năng suất của Brazil (Cụ thể: Năm 2013 so với năm 2000, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Brazil đạt 4,14%, của Việt Nam đạt 2,37%, của Indonesia đạt 1,65%, của Mexico là -2,86%, của toàn thế giới là 1,51%); Nhưng trong giai đoạn 2013-2022, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam lại đạt mức cao nhất thế giới (Cụ thể: Năm 2022 so với năm 2013, CAGR năng suất cà phê hạt xanh của Việt Nam đạt 3,01%, của Brazil đạt 1,97%, của Indonesia đạt 1,42%, của Mexico là - 1,80%, của toàn thế giới là 0,43%).

Thành tựu tăng năng suất cà phê nổi trội này của Việt Nam có sự đóng góp rất lớn của việc thực hiện đề án tái canh cà phê các tỉnh vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020 nêu trên.

KẾT LUẬN

Việt Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, có năng suất cà phê bình quân đạt gấp hơn 3 lần năng suất cà phê toàn cầu. Nguyên nhân chủ yếu giúp cà phê Việt Nam đạt được thành tựu này là do:

(i) Việt Nam tập trung vào sản xuất cà phê Robusta vì đây là loại cà phê có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng… ở nhiều vùng đất của Việt Nam;

(ii) Nhà nước Việt Nam đã chú trọng đầu tư phát triển sản xuất cà phê, cập nhật và phổ biến rộng rãi nhiều kỹ thuật trồng trọt tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả canh tác;

(iii) Việt Nam đã đẩy mạnh việc trồng tái canh và ghép cải tạo cây cà phê, giúp tăng đáng kể năng suất cà phê bình quân…

Vì vậy, việc cập nhật thông tin, phân tích về sản xuất và diễn biến thị trường cà phê giai đoạn 2015-2026, tìm ra nguyên nhân giúp năng suất cà phê Việt Nam đạt mức cao… từ đó rút kinh nghiệm để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. United States Department of Agriculture, “Coffee: World Markets and Trade”, June 2025.

2. International Coffee Organization (ICO), “Annual review, Coffee year 2023/2024”.

3. Cục Thống kê, Dữ liệu về xuất nhập khẩu hàng hoá từ năm 2014-2025.

4. Cục Hải quan, Dữ liệu về xuất nhập khẩu hàng hoá từ năm 2023-2025.

ThS. Lê Thị Bích Ngọc - Khoa Quản trị Kinh doanh

(Học viện Tài chính)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang