Hàng giả 'đội lốt' hàng thật: Chiêu trò gian lận mã số mã vạch và giải pháp quản lý
(VietQ.vn) - Không ít đối tượng gian thương đã lợi dụng mã số mã vạch hợp lệ của doanh nghiệp để hợp thức hóa hàng giả, hàng nhái. Những sản phẩm kém chất lượng nhưng mang ‘vỏ bọc’ mã vạch chính hãng khiến người tiêu dùng khó phân biệt thật – giả, gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp lẫn xã hội.
Ghi nhãn điện tử bằng mã số, mã vạch góp phần giám sát chất lượng và kiểm soát khi có sự cố
Mã số, mã vạch - nền tảng cho chuyển đổi số hàng hóa tại Việt Nam
Mã số mã vạch là công cụ quan trọng để xác định nguồn gốc, truy xuất thông tin sản phẩm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuy nhiên, thời gian qua xuất hiện tình trạng gian lận hết sức tinh vi, đó là sử dụng trái phép mã số, mã vạch của doanh nghiệp khác đã được cấp mã hợp lệ, nghĩa là mã số được in trên bao bì, nhãn mác là mã thật nhưng lại không thuộc về chủ sở hữu của sản phẩm thực tế.
"Lập lờ đánh lận con đen”
Công an tỉnh Thanh Hóa kiểm tra tang vật vụ án.
Điển hình vào hồi tháng 5 vừa qua, Công an tỉnh Thanh Hóa triệt phá cơ sở sản xuất, buôn bán mỹ phẩm giả số lượng lớn do Nguyễn Thị D. (30 tuổi, trú xã Hợp Thắng, huyện Triệu Sơn) làm chủ. Cụ thể, đối tượng này đã đặt mua các loại kem, serum và chất pha trộn trên mạng xã hội với giá 50.000 đồng/kg cùng một số chất tạo màu, tạo mùi. Sau đó đối tượng sử dụng máy trộn cầm tay để khuấy, đánh, trộn cho các loại dung dịch này gần giống với mỹ phẩm nguyên bản rồi bơm, đổ vào chai lọ mỹ phẩm của các nhãn hàng đã sử dụng hết được thu mua từ trước đó, bán ra thị trường.
Đối tượng vi phạm đã dựa vào uy tín của mã số, mã vạch để “ngụy trang” sản phẩm giả, khiến người tiêu dùng hoàn toàn bị động và mất khả năng phân biệt thật - giả bằng mắt thường hay qua ứng dụng quét mã thông thường.
Một lỗ hổng khác cũng bị lợi dụng là việc nhiều sản phẩm có gắn mã số, mã vạch nhưng không được kê khai trên Hệ thống cơ sở dữ liệu mã số mã vạch quốc gia (VNPC). Khi người tiêu dùng, cơ quan chức năng quét mã không truy xuất được thông tin chính thức, dữ liệu hiển thị trống.
Tình trạng này phản ánh thực tế nhiều doanh nghiệp sau khi được cấp mã số, mã vạch không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ kê khai thông tin sản phẩm theo quy định hoặc cố tình né tránh để không bị “truy xuất”. Từ một công cụ minh bạch hóa, mã vạch đang bị biến thành “lớp áo nguy hiểm” giúp hợp pháp hóa hàng hóa không rõ nguồn gốc - lẫn lộn giữa thật và giả trong các chuỗi phân phối chính thống.
Cùng với đó, thị trường cũng xuất hiện ngày càng nhiều sản phẩm dán mã vạch “tự phát” - tức là mã chưa từng được cấp bởi tổ chức quản lý có thẩm quyền tại Việt Nam (GS1 Việt Nam) và không tồn tại trong bất kỳ hệ thống dữ liệu chính thống nào. Phổ biến ở các sản phẩm hàng hóa bán online, hàng xách tay không rõ xuất xứ hoặc hàng hóa sản xuất không phép.
Đáng lo ngại hơn, một số doanh nghiệp cố tình tạo ra mã số giống cấu trúc mã thật, đánh lừa người tiêu dùng và cả hệ thống phân phối. Trong khi đó, các siêu thị, cửa hàng nhỏ lẻ thường chỉ kiểm tra mã bằng phần mềm nội bộ, không đối chiếu dữ liệu trên VNPC - tạo điều kiện để mã giả “lọt lưới”.
Ngoài ra, một hình thức tinh vi hơn là việc doanh nghiệp trong nước sử dụng mã số, mã vạch của nước ngoài nhưng không có bất kỳ giấy tờ ủy quyền, xác thực nào từ chủ sở hữu nước ngoài. Đặc biệt, nhiều mặt hàng nhạy cảm như sữa ngoại, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng cao cấp liên tục bị phát hiện.
Điển hình có thể nhắc đến vụ việc hơn 600 loại sữa bị làm giả gắn tem mác mã vạch Mỹ, Úc được phân phối bởi mạng lưới bao gồm 9 công ty với các dòng sữa giả phổ biến như: Cilonmum, Talacmum, Colos 24h Premium, Bold Milk, Sure IQ Sure Gold,….
Giải pháp nào ngăn chặn?
Trong bối cảnh đó, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần có bước chuyển rõ ràng trong chính sách quản lý và công nghệ xác thực hàng hóa.
Thứ nhất, cần khôi phục cơ chế kiểm soát mã nước ngoài: Việc bãi bỏ thủ tục xác thực mã nước ngoài như hiện nay đang mở đường cho mã không rõ nguồn gốc “tự do” len lỏi vào thị trường. Các chuyên gia đề xuất cần rà soát và đánh giá lại tác động của Nghị định 13/2022/NĐ-CP, đồng thời khôi phục yêu cầu xác thực mã nước ngoài đối với tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam. Ngoài ra, cần ban hành hướng dẫn chi tiết về điều kiện sử dụng mã số nước ngoài trong lưu thông thương mại nội địa, nhằm tăng cường tính minh bạch và ngăn chặn gian lận.
Thứ hai, cần tăng cường liên kết dữ liệu với hệ thống VNPC: Một trong những khâu quan trọng là bắt buộc các doanh nghiệp sau khi được cấp mã số mã vạch phải kê khai đầy đủ thông tin sản phẩm trên Hệ thống cơ sở dữ liệu mã số mã vạch quốc gia (VNPC). Đồng thời, các đơn vị phân phối như siêu thị, cửa hàng tiện lợi cũng cần kết nối phần mềm bán hàng với VNPC để kiểm tra thông tin chính thống. Đây không chỉ là công cụ truy xuất mà còn là “lá chắn” kỹ thuật để ngăn chặn sản phẩm không rõ nguồn gốc được hợp thức hóa nhờ mã vạch.
Thứ ba, cần khuyến khích sử dụng các công nghệ xác thực hiện đại: Song song với mã vạch truyền thống, Việt Nam cần đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp xác thực nâng cao như truy xuất nguồn gốc điện tử, tem chống giả thông minh, tích hợp đa lớp bảo mật và khả năng xác minh tức thời qua smartphone. Mỗi sản phẩm cần có một mã định danh duy nhất, không thể sao chép, được liên kết với hệ thống dữ liệu xác thực trung tâm - giúp cả người tiêu dùng lẫn nhà phân phối có thể kiểm tra nguồn gốc và độ chính hãng nhanh chóng.
Cũng cần nhìn nhận rằng, trong cuộc chiến chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng đội lốt mã thật, hệ thống pháp lý và công nghệ chỉ là một phần, mỗi người tiêu dùng tỉnh táo là một “chốt chặn” quan trọng, mỗi doanh nghiệp minh bạch chính là mắt xích vững chắc trong chuỗi cung ứng tin cậy. Cơ quan quản lý nhà nước cần thường xuyên kiểm tra thị trường, kết hợp dữ liệu từ VNPC để phát hiện sai phạm, đồng thời truyền thông rõ ràng đến cộng đồng về quy chuẩn mã số mã vạch và cách nhận biết vi phạm.
Một trong những điểm mới được nêu tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quy định về nhãn hàng hóa là quy định về nhãn điện tử (E-label).
Theo đó, nhãn điện tử dưới dạng mã QR hoặc Data matrix chứa đầy đủ các nội dung bắt buộc về sản phẩm, xuất xứ, thông số kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng và các chứng nhận liên quan, được sử dụng tự nguyện hoặc bắt buộc tùy theo mức độ rủi ro của sản phẩm. Việc này giúp tăng cường minh bạch thông tin, dễ dàng truy xuất nguồn gốc và chống giả, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia được giao nhiệm vụ quản lý hệ thống nhãn điện tử toàn quốc nhằm thống nhất và đồng bộ hóa việc triển khai.
Dự thảo cũng quy định rõ việc quản lý ghi nhãn hàng hóa trên các nền tảng thương mại điện tử. Các sàn giao dịch phải đảm bảo các thông tin về nhãn hàng hóa được công khai trước khi người tiêu dùng đặt mua, đồng thời bảo đảm hàng hóa giao đến khách hàng phải có nhãn đúng quy định. Các sàn cũng phải lưu trữ dữ liệu ghi nhãn, cung cấp cho cơ quan quản lý khi kiểm tra. Điều này khắc phục những bất cập hiện nay khi hàng hóa trên thương mại điện tử chưa được kiểm soát chặt chẽ về nhãn mác, gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng và thị trường.
Thanh Tùng









