Nâng cao năng suất, chất lượng nông sản ĐBSCL bằng tiêu chuẩn và cải tiến quy trình thích ứng khí hậu

author 08:00 01/01/1970

(VietQ.vn) - Để phát triển bền vững, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cần nâng cao năng suất và chất lượng nông sản thông qua thích ứng biến đổi khí hậu, áp dụng tiêu chuẩn đo lường chất lượng và cải tiến quy trình sản xuất.

Sự kiện: Chuyên đề: NÂNG CAO NĂNG SUẤT CHẤT LƯỢNG

Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là trung tâm nông nghiệp quan trọng của Việt Nam, đóng góp lớn vào sản xuất lương thực, thủy sản và xuất khẩu nông sản. Sau quá trình sáp nhập các địa phương, vùng ĐBSCL sở hữu nhiều lợi thế về kinh tế biển, kinh tế biên giới, đồng thời có cộng đồng doanh nghiệp ngày càng gắn kết. Nền kinh tế vùng đã hình thành các chuỗi giá trị công nghiệp chế biến quy mô hàng tỷ USD, với sản phẩm xuất khẩu tới hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, thể hiện tiềm năng cạnh tranh toàn cầu của nông nghiệp ĐBSCL.

Tuy nhiên, doanh nghiệp đang gặp những thách thức như năng lực tích lũy nội tại đang chững lại, chi phí đầu vào tăng, thị trường xuất khẩu ngày càng khắt khe, cạnh tranh khu vực ngày càng gay gắt, tác động bất lợi do biến đổi khí hậu… Để phát triển bền vững, doanh nghiệp ĐBSCL cần chuyển từ tư duy tăng trưởng bằng số lượng sang phát triển bằng chất lượng, bằng hệ thống quản trị chuẩn mực, chuyển từ “làm theo kinh nghiệm” sang “làm theo hệ thống”. Cần thúc đẩy hành động cụ thể của doanh nghiệp và địa phương trong việc áp dụng các công cụ tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng, hướng tới phát triển nông nghiệp xanh, hiệu quả và bền vững cho vùng ĐBSCL.

Ảnh minh họa

Để thực hiện hóa điều này, thời gian qua Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 4 đã tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp qua các hoạt động cụ thể như tổ chức hội thảo nhằm thảo luận các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); Áp dụng các công cụ quản trị chất lượng và quy trình kiểm soát kỹ thuật giúp doanh nghiệp đảm bảo sản phẩm đạt chuẩn, ổn định chất lượng, dễ dàng tiếp cận thị trường xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu khắt khe của các hệ thống quản lý quốc tế như ISO, HACCP hay GlobalGAP. Đây là bước đi quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí, và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp ĐBSCL.

Không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất, nông nghiệp công nghệ cao đang được áp dụng đồng bộ từ trồng trọt, chăn nuôi đến chế biến, giúp gia tăng giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ. Tưới tiêu thông minh, quản lý mùa vụ bằng công nghệ số, ứng dụng cơ giới hóa trong thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch đã giúp ĐBSCL từng bước hình thành các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, góp phần xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng linh hoạt trước tác động của biến đổi khí hậu.

Các giải pháp cải tiến tập trung vào nâng cao năng suất và chất lượng “thích ứng từ gốc rễ”, bao gồm: cải tiến quy trình canh tác, lựa chọn giống cây trồng – vật nuôi phù hợp với điều kiện khí hậu, áp dụng công nghệ tưới tiêu tiết kiệm nước, cơ giới hóa trong thu hoạch và sơ chế, đồng thời xây dựng hệ thống quản lý chất lượng từ sản xuất đến chế biến. Những giải pháp này không chỉ giúp thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn tạo ra sản phẩm đồng đều, giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao giá trị kinh tế.

Thực tiễn tại ĐBSCL cho thấy hiệu quả rõ rệt. Doanh nghiệp sản xuất lúa, trái cây tại An Giang, Đồng Tháp và Bến Tre đã áp dụng hệ thống đo lường và giám sát dinh dưỡng đất, kết hợp cơ giới hóa trong thu hoạch và sấy khô, giúp tăng năng suất trung bình 15–20% và giảm thất thoát nông sản 10–12%, đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Trong lĩnh vực thủy sản, mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại Cà Mau sử dụng hệ thống kiểm soát chất lượng nước và dinh dưỡng, kết hợp giám sát dữ liệu trực tuyến, nâng tỷ lệ sống của tôm trên 90%, giảm chi phí thức ăn và năng lượng, đồng thời tạo ra sản phẩm đạt chuẩn quốc tế. Những kết quả này minh chứng rằng việc áp dụng công cụ quản lý chất lượng, đo lường chính xác và cải tiến quy trình có thể tạo ra lợi ích kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững.

Về phía doanh nghiệp, Công ty Phát triển kinh tế Duyên Hải (Cofidec) thành viên của Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA), đang chứng minh năng lực thích ứng mạnh mẽ bằng chiến lược 2 trụ cột: củng cố xuất khẩu và mở rộng thị trường nội địa. Cùng với đó, quá trình xanh hóa sản xuất và chuẩn hóa theo tiêu chí ESG đang trở thành động lực mới giúp doanh nghiệp tiến xa hơn trên chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện Cofidec đang tập trung phát triển các vùng nguyên liệu sạch tại ĐBSCL theo tiêu chuẩn GlobalGAP.

Theo ông Đoàn Văn Nam, Tổng Giám đốc Cofidec, thành quả này đến từ chiến lược rõ ràng và kiên định đã được doanh nghiệp đưa ra từ đầu năm. Đó là tăng trưởng đến từ việc nâng chất lượng sản phẩm và chú trọng đầu tư xanh để đáp ứng các tiêu chí toàn cầu. Trong đó, với đầu tư xanh, hoạt động quan trọng Cofidec đang triển khai là tổ chức sản xuất theo hướng thân thiện môi trường và an toàn với người tiêu dùng. Nước thải tại nhà máy đều được xử lý đạt chuẩn; bao bì sản phẩm được làm từ nguyên liệu có chứng nhận xuất xứ rõ ràng. Nhờ vậy, Cofidec đã đạt được những tiêu chuẩn bảo vệ môi trường cao nhất hiện nay như Global GAP, HACCP, ISO 22000, BRC, HALAL… và công ty sẽ tiếp tục cập nhật khi có những quy định mới.

Hay Công ty TNHH NTACO tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang là một trong những doanh nghiệp điển hình trong lĩnh vực thủy sản đã triển khai sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP – Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu. Vùng nuôi cá tra của NTACO được chứng nhận tiêu chuẩn này với diện tích hơn 30 ha, đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao uy tín trên thị trường xuất khẩu, đặc biệt là tại châu Âu. Việc áp dụng GlobalGAP giúp NTACO kiểm soát quy trình nuôi, môi trường nước và sử dụng thức ăn phù hợp, tạo tiêu chí chất lượng đồng đều cho sản phẩm thủy sản.

Tương tự, Công ty Cổ phần Nam Việt (NAVICO) – một doanh nghiệp thủy sản có vùng nuôi tại xã Mỹ Hòa Hưng (thành phố Long Xuyên) và huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cũng đã đạt chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP cho vùng nuôi cá tra với quy mô lớn. Chứng nhận này giúp doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn chất lượng sản phẩm ngay từ khâu nuôi, phù hợp yêu cầu của thị trường xuất khẩu khó tính và tạo nền tảng cho chuỗi sản xuất thủy sản bền vững.

Song theo các chuyên gia, để đạt hiệu quả cao, cần tăng cường phối hợp liên ngành giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các tổ chức chuyên môn. Việc xây dựng chuỗi giá trị nông sản bền vững, áp dụng tiêu chuẩn đo lường và quản lý chất lượng từ khâu sản xuất đến chế biến sẽ giúp doanh nghiệp kiểm soát chất lượng ổn định, tăng giá trị xuất khẩu và thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu. Đồng thời, các địa phương cần chủ động hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ mới, giải pháp cải tiến và chuẩn hóa quy trình sản xuất, tạo nền tảng cho nông nghiệp hiện đại, xanh và bền vững.

Ngoài ra, nâng cao năng suất và chất lượng còn giúp giảm rủi ro kinh tế, tăng thu nhập cho người sản xuất và ổn định chuỗi cung ứng nông sản. Khi sản phẩm đáp ứng các yêu cầu chất lượng, doanh nghiệp dễ dàng mở rộng thị trường xuất khẩu, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời giảm áp lực cạnh tranh trong nước. Việc áp dụng các công cụ quản lý chất lượng và tiêu chuẩn đo lường cũng thúc đẩy doanh nghiệp hướng tới các mô hình kinh doanh hiệu quả, thích ứng khí hậu và bền vững.

Nhìn chung, cải thiện năng suất và chất lượng nông nghiệp ĐBSCL là yêu cầu tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm an toàn sản xuất và phát triển kinh tế bền vững của vùng. Việc áp dụng công cụ tiêu chuẩn, đo lường và quản lý chất lượng kết hợp với giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu sẽ giúp doanh nghiệp tăng năng suất, cải thiện chất lượng, giảm chi phí và nâng cao giá trị gia tăng. Đây là hướng đi chiến lược để ĐBSCL duy trì vị thế trung tâm nông nghiệp quốc gia, đồng thời hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế.

An Dương 

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang